Nồng độ khí nhà kính (CO2, CH4 và N2O và Halocarbons) đã tăng lên kể từ trước cách mạng công nghiệp do hoạt động của con người. Nồng độ CO2 trong khí quyển tăng từ 280 ppm vào năm 1750 lên 379 ppm năm 2005, và nồng độ N2O tăng từ 270 ppb đến 319 ppb trong cùng thời gian, còn khí CH4 trong năm 2005 rất nhiều, vào khoảng 1774 ppb, tăng hơn gấp đôi nồng độ của nó ở thời kỳ tiền công nghiệp là 750 ppb.
Tiểu môi trường xung quanh hạt phân lân hoặc trong dung dịch phân lân là đối tượng của rất nhiều phản ứng chính và phụ có thể xảy ra, ảnh hưởng mạnh đến lượng lân hữu hiệu. Tác động thúc đẩy hoặc làm chậm lại các phản ứng này là phương pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng phân lân ở dạng rắn cũng như dạng lỏng, cải thiện năng suất và hiệu quả kinh tế đồng thời có ảnh hưởng tích cực đến môi trường.
Đánh giá sự biến động của đất phèn giữa hai thời kỳ (TK) 1975 và 2005. Bản đồ đất mặn, đất phèn TK1975 được số hóa từ các bản đồ đất cũ (xây dựng vào những năm 70 của thế kỷtrước). Bản đồ đất mặn, đất phèn TK 2005 được xây dựng trong giai đoạn 2006 - 2009, bằng cách lấy mẫu bổ sung, chỉnh lý bản đồ đất TK1975. Phẫu diện đất được lấy theo hình “rẻ quạt”, lấy dày lên từ tâm ranh giới đất phèn ra phía ngoài ranh giới các loại đất khác.
Cây bông Gossypium L. bao gồm 45 loài lưỡng bội và 5 loài tứ bội (Fryxell, 1992). Bông lưỡng bội chia làm 8 bộ gen, được ký hiệu từ A đến G và K (Beasley, 1940; Wendel và Cronn, 2003) với số lượng nhiễm sắc thển = 13. Cho đến nay, có 4 loài bông được trồng lấy sợi: Hai dạng nhị bội (bông cỏ) (2n = 2x = 26): G. arboreumvà G. herbaceumvà hai dạng tứ bội (2n = 2x = 52): G. hirsutum (bông luồi) và G. barbadense (bông hải đảo). Trong đó, bông cỏ G. arboreumcó bộ gen lưỡng bội AA có các đặc tính nông sinh học tốt như chín sớm, độ bền xơ, hàm lượng dầu cao, có khả năng chống chịu điều kiện bất lợi, kháng sâu bệnh tốt... Vì thế, đây là nguồn gen được các nhà chọn giống quan tâm (Ma, 2008).
Đất xám là nhóm đất chính ở Đồng Tháp Mười, chiếm 16,10% tổng diện tích. Phần lớn trên đất này chỉ sản xuất 2 vụ lúa Đông Xuân -lúa Hè Thu. Thời gian đất bỏ hóa giữa 2 vụ khoảng 70 - 90 ngày. Mè là cây trồng cạn ngắn ngày, luân canh tăng vụ tốt trong cơ cấu lúa Đông Xuân - mè Xuân Hè - lúa Hè Thu và hiệu quả kinh tế tăng khoảng 30% so với độc canh lúa Đông Xuân - lúa Hè Thu.
Bệnh đốm lá trên nhóm rau họ thập tự với triệu chứng bệnh điển hình là đốm xanh giot dầu, sũng nước, hơi lõm so với bề mặt lá do vi khuẩn Xanhthomonas sp. gây ra. Bệnh là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm đáng kể, đặt biệt trong giai đọan mùa mưa.
Từ năm 2009 đến 2011, Trung tâm Hưng Lộc đã thu thập, lưu giữ và đánh giá được 855 dòng ngô nếp; 42 dòng nếp ngọt. Kết quả thử khả năng kết hợp và lai tạo được 329 tổ hợp lai. Khảo sát đánh giá và tuyển chọn được 21 tổ hợp lai ưu tú, những tổ hợp lai này có các đặc điểm: thời gian sinh trưởng 76- 79 ngày, tương đương với đối chứng MX10 và Tím dẻo 926; có hương vị thơm ngon và có độ dẻo tương đương đối chứng MX10. Xác định được 5 tổ hợp lai triển vọng nhất là VK6; VK10; VK24; VK36 và VK37.
Qua nghiên cứu cho thấy công suất/ngày của các nhà máy biến thiên từ 30 tấn cho đến 500 tấn/ngày, trung bình là 170,2 tấn/ngày. Có 20% nhà máy hoạt động vượt công suất lý thuyết/năm, từ 130 - 141%. Hầu hết số nhà máy còn lại chỉ hoạt động dưới mức công suất lý thuyết/năm. Lượng lúa xay chà hàng ngày của các nhà máy biến thiên từ 6 tấn – 500 tấn/ngày, trung bình là 136 tấn/ngày. Tỷ lệ gạo lức thu hồi cao nhất trong vụ Đông xuân (ĐX), kế đến vụ Thu Đông (TĐ) và sau cùng là vụ Hè Thu (HT), tương ứng là 73,44%; 71,67% và 68,81%. Đối với giống lúa IR 50404 cho tỷ lệ gao nguyên thu hồi cao nhất trong các giống hiện nay.