Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  21
 Số lượt truy cập :  33450309

Thứ ba, 30-11-2021 | 07:26:07

Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam (DHNTB) có khoảng 339.000 ha đất cát với đặc thù hàm lượng sét thấp, CEC thấp, độ chua cao, hợp chất hữu cơ thấp, khả năng giữ nước và giữ phân kém, nghèo kiệt dinh dưỡng nên năng suất cây trồng rất thấp. Các nghiên cứu của dự án ACIAR ở vùng này đã xác định, đất cát vùng DHNTB bị thiếu hụt một số loại dinh dưỡng điển hình như đa lượng, trung lượng (K, S) và vi lượng (B, Cu). Để bổ sung cho sự thiếu hụt này, thì cần bón bổ sung 90 kg K/ha, 30 kg S/ha, 0,25 kg B/ha và 2,5 kg Cu/ha.

Thứ hai, 29-11-2021 | 08:47:03

Ngập úng làm giảm năng suất đậu tương nghiêm trọng trên toàn thế giới. Sự phát triển của các giống cây trồng chịu được căng thẳng có thể một biện pháp hữu hiệu để giảm bớt tác động tiêu cực của ngập úng. Thông tin phân tử về biểu hiện các kiểu gen chống chịu và nhạy cảm với ngập úng có giá trị để cải thiện khả năng chống chịu ngập úng của cây đậu tương.

Thứ sáu, 26-11-2021 | 11:00:06

Thuốc trừ sâu có nguồn gốc hóa học từ lâu đã được sử dụng phổ biến trong nông nghiệp vì hiệu quả tác động nhanh, giá thành rẻ và dễ sử dụng. Tuy nhiên, thuốc hóa học lại bộc lộ nhiều yếu điểm như khó phân hủy, để lại nhiều dư lượng trong đất và nông sản gây ảnh  hưởng đến môi trường và ngày càng xuất hiện nhiều loài sâu hại kháng thuốc. Vì vậy mà việc nghiên cứu và tìm kiếm các loại thuốc sinh học có hiệu quả phòng trừ sâu hại, thân thiện với môi  trường, an toàn cho con người và các loại sinh vật khác ngày càng được chú trọng và quan tâm nhiều hơn.

Thứ năm, 25-11-2021 | 08:36:33

Ảnh hưởng của liều lượng phân đạm và mật độ đến năng suất sinh khối của giống ngô sinh khối lai đơn MN-2 vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên được thực hiện tại Đồng Nai và Đắk Lắk năm 2019 và 2020. Các thí nghiệm được bố trí  hai yếu tố kiểu lô phụ (Split – Plot Design) với lô chính là các mức đạm và lô phụ là các mật độ, 3 lần lặp lại. Kết quả nghiên cứu xác định được phân bón và mật độ thích hợp cho giống ngô sinh khối MN-2 như sau: vụ Hè Thu và Thu Đông (mùa mưa) sử dụng 2500 kg phân vi sinh, 160N-90P2O5-90 K2O (kg/ha) và mật độ 71.428 cây/ha (70 cm x 20 cm); vụ Đông Xuân (mùa khô) sử dụng 2500 kg phân hữu cơ, 200N-90P2O5-90 K2O (kg/ha)  và mật độ 79.365 cây/ha (70 cm x 18 cm).

Thứ ba, 23-11-2021 | 08:14:17

Qua 5 năm tuyển chọn và khảo nghiệm bộ giống sắn đã chọn được giống HL-S12 có nhiều ưu điểm vượt trội so với đối chứng có thể lưu hành, phát triển và mở rộng cho sản xuất. Giống sắn HL-S12 được chọn từ tổ hợp lai HL-S10 × KM140, đánh giá tại Trung tâm Hưng Lộc từ năm 2014 đến năm 2021. Giống có một số đặc tính nông học sau: Số củ/bụi 10,3 củ, khối lượng củ/bụi 5,3 kg, chỉ số thu hoạch là 62,9. Kết quả khảo nghiệm diện hẹp cho thấy giống sắn HL-S12 có khả năng chống chịu khá với bệnh chổi rồng, nhện đỏ, khảm lá; năng suất biến động từ 36,02 - 42,34 tấn/ha;

Thứ hai, 29-11-2021 | 08:44:16

Mất sức sống của hạt là một trở ngại nghiêm trọng trong sản xuất và bảo quản hạt giống đậu tương. Hiểu được các yếu tố ảnh hưởng đến sức sống của hạt và xác định các kiểu gen đậu tương có sức sống cao hơn là rất quan trọng trong sản xuất đậu tương. Trong nghiên cứu này, hạt giống của 125 kiểu gen đậu tương của ba loài khác nhau (Glycine tomentella, Glycine soja và Glycine max) và 25 dòng lai tái tổ hợp (RIL) (Glycine soja x Glycine soja) đã được thử nghiệm sức nảy mầm ngay sau khi thu hoạch, sau đó là một, hai và ba năm bảo quản.

Thứ ba, 02-11-2021 | 08:18:36

Trong nghiên cứu này, thông tin về nhóm protein giàu Methionine (Methionine-rich protein, MRP) đã được tìm hiểu một cách đầy đủ trên cây sắn (Manihot esculenta) bằng các công cụ tin sinh học. Kết quả đã xác định được tổng số 155 MRP, với tiêu chí kích thước ≥ 95 axít amin và hàm lượng Met ≥ 6%. Trong đó, 52 (trên tổng số 155) MRP chưa được chú giải chức năng ở sắn. Phân tích cho thấy các MRP chưa rõ chức năng có đặc tính lý hóa đa dạng.

Thứ sáu, 29-10-2021 | 08:38:26

Khả năng kết hợp chung (GCA) về năng suất sinh khối của 12 dòng ngô thuần từ các nguồn vật liệu khác nhau được thực hiện qua phương pháp lai đỉnh (Topcross). Ba cây thử được sử dụng trong thí nghiệm là các dòng thuần LN333,  D67 và D133. Thí nghiệm 36 tổ hợp lai đỉnh và tổ hợp lai triển vọng được bố trí kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD) 3 lần lặp lại trong vụ Hè Thu và Thu Đông 2018 tại Hưng Lộc (Đồng Nai).

Thứ năm, 28-10-2021 | 09:16:50

Nghiên cứu về đa dạng di truyền là một trong những bước đầu trong việc cải thiện giống cây trồng. Trong nghiên cứu này, chỉ thị phân tử ISSR được sử dụng để đánh giá đa dạng di truyền của 120 dòng/giống đậu nành đang được lưu giữ trong ngân hàng giống của Trường Đại học Cần Thơ. Kết quả khuếch đại từ 10 chỉ thị phân tử ISSR cho được tổng cộng 89 phân đoạn, trong đó có 79 phân đoạn đa hình, chỉ số PIC của các mồi ISSR dao động từ 0,06 đến 0,25 và hệ số tương đồng từ 0,55 - 0,91. Sự đa dạng di truyền tương đối cao và 120 dòng/giống đậu nành chia được thành 7 nhóm chính và một số phân nhóm.

Thứ tư, 27-10-2021 | 09:04:13

Kết quả khảo nghiệm và sản xuất thử giống đậu tương cho vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đã xác định được giống đậu tương HLĐN 910 và giống đậu tương HLĐN 904 là 2 giống tốt, có khả năng phát triển trong sản xuất. Các giống có thời gian sinh trưởng (TGST) từ 78 - 83 ngày, có khả năng chống chịu tốt với bệnh gỉ sắt (điểm 1 - 3), chín tập trung, ít tách hạt ngoài đồng, hàm lượng protein 33,7%;

Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD