Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  21
 Số lượt truy cập :  33486662
Báo báo ngành hàng chè tháng 11/2015
Thứ bảy, 19-12-2015 | 03:21:44

I. Thị trường thế giới:

 

Trong tháng 11, giá chè tại Bangladesh có sự biến động tăng và giảm. Sau hai phiên giảm giá trong tuần giao dịch cuối tháng 10 và đầu tháng 11 trong bối cảnh nhu cầu dịu lại và nguồn cung thấp hơn đối với chè chất lượng cao, giá đã tăng trở lại nhờ sự sụt giảm về cung cùng với nhu cầu cao cho mùa đông. Tại phiên đấu giá thứ 27 của mùa kinh doanh hiện tại, giá chè Bangladesh ở mức trung bình 192,54 taka (tương đương 2,44 USD)/kg, tương đương so với mức 189,11 taka/kg tại phiên đấu giá trước đó (ngày 10/11). Khoảng 2,03 triệu kg đã được chào bán tại trung tâm đấu giá duy nhất Chittagong, trong đó có 13,76% chưa được bán. Tại phiên đấu giá trước, khoảng 6,5% trong số 2,14 triệu kg chưa được bán. Nhu cầu mạnh mẽ do người mua muốn tích trữ cho mùa đông trong bối cảnh lượng cung thấp hơn tại phiên đấu giá đã giúp đẩy giá đi lên. Tuy nhiên, lượng tiêu thụ giảm do lượng cung chè chất lượng thấp nhiều hơn. Ở Bangladesh, nhu cầu đối với chè thường tăng vào mùa đông.

 

Hãng môi giới chè châu Phi (Africa Tea Brokers – ATB) cho biết: Giá chè Best Broke Pekoe Ones (BP1s) TEABP1-BEST-KE hạng nhất Kenya giảm trong các phiên đấu giá tháng này ở Mombasa, hiện ở mức mức 3,28- 4,40 USD/kg so với 3,65 – 4,90 USD/kg tuần cuối tháng trước. Trong khi đó, giá chè Best Brighter Pekoe Fanning Ones (PF1s) TEAPF1-BEST-KE tháng này đạt 3,70 – 4,08 USD/kg, so với 4,15 – 4,39 USD/kg tuần cuối tháng trước.

 

Sản lượng chè của Kenya giảm 14% từ tháng 1 đến tháng 9 năm nay do ảnh hưởng bởi hạn hán xảy ra hồi đầu năm. Kenya là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu trà đen và mặt hàng này đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế lớn nhất Đông Phi.

 

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp , Thủy sản và Thực phẩm, sản lượng chè trong 9 tháng năm 2015 của Kenya giảm xuống còn 271,4 triệu kg từ 315,7 triệu kg của cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu chè của Kenya cũng giảm xuống còn 328 triệu kg trong giai đoạn đến tháng chín, từ 376,8 triệu kg của cùng kỳ năm ngoái. Sự khác biệt về số liệu xuất khẩu và sản lượng thường phát sinh từ trà tồn kho chưa bán từ năm trước.

 

Tình trạng hạn hán hồi đầu năm nay đã ảnh hưởng đến sản lượng chè Kenya, trong khi các nhà máy chế biến nhận giao hàng ít hơn. Sản xuất chè ở quốc gia phía đông châu Phi này dự kiến ​​sẽ được cải thiện trong quý cuối cùng của năm do mưa nhiều hơn ở hầu hết các vùng trồng chính.

 

Hai công ty sản xuất và chế biến chè của Kenya là Williamson Tea WTK.NR và Kapchorua Tea KAPC.NR cho biết lợi nhuận trước thuế của họ trong sáu tháng tính đến 30/9/2015 đã tăng hơn gấp đôi, được thúc đẩy bởi đồng shilling yếu so với đồng tiền giao dịch và việc thực hiện các biện pháp kiểm soát chi phí chặt chẽ đã làm tăng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, hai công ty này cho biết giá chè có thể giảm trong sáu tháng tiếp theo của năm tài chính với dự báo về một vụ thu hoạch lớn hơn. Sự bắt đầu của mùa mưa ngắn thường diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mùa màng trong những tháng tới.

 

Sản lương chè của Ấn Độ trong tháng 9/2015 đã giảm 5,4% so với cùng kỳ năm trước xuống 148,81 triệu do điều kiện thời tiết bất lợi ảnh hưởng tới khu vực đông bắc trọng điểm, Ủy ban Chè quốc gia cho biết trong một tuyên bố. Sản xuất ở Tây Bengal giảm 13,5% so với một năm trước xuống 39,24 triệu kg, trong khi sản lượng ở miền nam Ấn Độ giảm 7,33% xuống 18,34 triệu kg, hội đồng quản trị cho biết. Ấn Độ, nước sản xuất chè lớn thứ hai trên thế giới, xuất khẩu chè CTC chủ yếu sang Ai Cập, Pakistan và Anh, và các loại chè truyền thống sang I-rắc, I-ran và Nga.

 

Ủy ban Chè của Ấn Độ sẽ sớm bắt đầu thực hiện bảo hiểm cây trồng cho người trồng chè quy mô nhỏ. Ủy ban đang đàm phán với các công ty bảo hiểm để bắt đầu chương trình này. Hiện có hơn 80.000 người trồng chè quy mô nhỏ ở Assam. Một phần của số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán bởi chính phủ và người trồng. Giá chè của người trồng quy mô nhỏ phụ thuộc vào thành phẩm được sản xuất bởi nhà máy chè. Sự thiệt hại về sản lượng do điều kiện khí hậu nằm ngoài sự kiểm soát của người trồng quy mô nhỏ. Chính vì vậy, người dân có nhu cầu đối với chương trình bảo hiểm cho các rủi ro liên quan đến sản xuất và biến động giá cả.

 

 

II. Thị trường trong nước:

 

Giá chè nguyên liệu tại Thái Nguyên và Lâm Đồng trong tháng 9 tiếp tục giữ mức ổn định của tháng trước. Cụ thể, tại Thái Nguyên, giá chè xanh búp khô giữ ở mức 130.000đ/kg, giá chè cành chất lượng cao vẫn giữ ở mức giá cao là 200.000đ/kg. Tại Bảo Lộc, Lâm Đồng giá chè nguyên liệu sản xuất trà xanh loại 1 ổn định ở mức 9.000 đ/kg, trong khi chè nguyên liệu sản xuất trà đen loại 1 cũng ổn định mức 4.500 đ/kg. Thị trường chè dự kiến sẽ sôi động và giá chè sẽ tăng cao khi Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán đến gần.

 

Một vài tháng gần đây, báo chí và công luận dấy lên các luồng thông tin về việc ngành chè Lâm Đồng “khốn đốn” đầu ra, đặc biệt trong đó là câu chuyện tồn kho và mất giá của trà Ô long. Về vấn đề này, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Tài, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, cho rằng đã có sự nhầm lẫn, bởi quy trình sản xuất loại trà này rất chặt chẽ và an toàn, chi phí đầu tư cao, kén thị trường đầu ra nên mới chỉ tập trung chủ yếu trồng ở Lâm Đồng, còn các tỉnh thành, địa phương khác là rất ít. Ngoài ra, theo ông Đoàn Trọng Phương, Chủ tịch Hội Chè Lâm Đồng chỉ ra, người nông dân hiện trồng chè sản xuất trà ​Ô long chưa nhiều, toàn tỉnh có khoảng 1.000 ha, sản lượng tối đa khoảng 1.000 tấn/năm, nên nếu có tồn kho thì chỉ khoảng vài trăm tấn, còn lại chủ yếu vẫn là chè đen và một số loại chè xanh khác. Sản lượng trà ​Ô long của Việt Nam hiện không nhiều, nên nhà quản lý cũng như doanh nghiệp và người nông dân cần phải bình tĩnh lại. Trước mắt, ngành chè Lâm Đồng cần hướng tới mở rộng đa dạng thị trường, đồng thời quy hoạch phát triển ngành dừng lại ở diện tích hiện có. Các doanh nghiệp sản xuất trà ​Ô long cần hướng tới phát triển thị trường nội địa. Bởi, trà ​Ô long là loại chè được sản xuất theo chuỗi đảm bảo quy trình an toàn, bên cạnh đó lại có nhiều hợp chất hữu cơ có lợi cho sức khỏe của con người.

 

Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Lâm Đồng mới đây đã khẳng định: Từ đầu tháng 10/2015 đến nay, tất cả mẫu chè được sản xuất tại Lâm Đồng đều không vượt ngưỡng 0,002ppm.

 

Theo đó, đơn vị này cùng với các tổ chức kinh doanh trong tỉnh đã lấy 69 mẫu chè để kiểm định hoạt chất fibronil. Tất cả 69 mẫu đều đạt tiêu chuẩn dưới 0,002ppm. Trên cơ sở đó, có thể khẳng định tất cả sản phẩm chè được sản xuất tại Lâm Đồng từ tháng 10/2015 đến nay đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang cả châu Âu và Đài Loan (Trung Quốc).

 

Như thông tin đã đưa, Đài Loan là thị trường chiếm đến 95% sản lượng chè Oolong và một phần lớn chè cành, chè đen xuất khẩu của tỉnh Lâm Đồng. Việc thị trường này đột ngột nâng tiêu chuẩn tồn dư hoạt chất fibronil trong chè từ 0,005ppm lên 0,002ppm đã gây khó khăn trong việc tiêu thụ cho ngành chè Lâm Đồng. Hiện tại, Lâm Đồng còn tồn kho gần 5.000 tấn chè thành phẩm; trong đó gần 700 tấn chè Ôlong.

 

Tuy nhiên, tất cả các sản phẩm này đều được sản xuất trước tháng 10. Riêng chè sản xuất nội trong tháng10/2015 đến nay đều đạt tiêu chuẩn 0,002ppm fibronil; tiêu chuẩn được xem là gần như sạch tuyệt đối.

III. Tình hình xuất khẩu:

 

Giá chè xuất khẩu vẫn có sự tăng nhẹ nhưng do khối lượng xuất khẩu giảm đã kéo theo sự sụt giảm về giá trị. Khối lượng xuất khẩu chè tháng 10 năm 2015 ước đạt 11 nghìn tấn với giá trị đạt 18 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 10 tháng đầu năm 2015 ước đạt 99 nghìn tấn với giá trị đạt 170 triệu USD, giảm 9,1% về khối lượng và giảm 8,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014. Giá chè xuất khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2015 đạt 1711 USD/tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2014. Trong 9 tháng đầu năm 2015, khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam với 38,11% thị phần – tăng 3,73% về khối lượng và tăng 2,09% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014. Các thị trường có giá trị xuất khẩu tăng đột biến là Nga (tăng 21,46%), các TVQ Arập Thống nhất (tăng 98,1%) và Indonesia (tăng 23,57%).

 

Nguyễn Vân Anh - Nghenong.

Trở lại      In      Số lần xem: 1450

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Xuất khẩu cao su tăng về lượng nhưng giảm về kim ngạch
  • Tổng hợp tin thị trường gạo ngày 13/4
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 13/4/2016
  • Báo cáo ngành hàng rau quả tháng 4/2016
  • Báo cáo mặt hàng chè tháng 4/2016
  • Giá gạo xuất khẩu tháng 4-2016
  • Báo cáo mặt hàng thịt tháng 4/2016
  • Báo cáo mặt hàng phân bón tháng 4/2016
  • Báo cáo ngành hàng hạt điều tháng 4/2016
  • Thị trường đường thế giới quý I/2016 và dự báo
  • Quý I/2016, xuất khẩu hàng rau quả tăng trưởng dương ở các thị trường
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 12/5/2016
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 30/5/2016
  • Thị trường thức ăn chăn nuôi quý I/2016 và dự báo
  • Báo cáo ngành hàng lúa gạo tháng 5/2016
  • Vào vụ mía mới, giá mía nguyên liệu tăng
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 25/5/2016
  • Xuất khẩu gạo: Campuchia tiến lên, Việt Nam tụt xuống
  • Thị trường NL TĂCN thế giới ngày 6/7: Giá ngô giảm do dự báo thời tiết Mỹ
  • Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước nhập khẩu đậu tương nhiều nhất thế giới
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD