Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  31
 Số lượt truy cập :  34074209
Báo cáo tổng hợp tình hình thị trường thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 11/2013 và dự báo tháng 12
Thứ hai, 23-12-2013 | 10:00:53

Thị trường thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thế giới tháng 11/2013 sôi động trở lại, giá tăng nhẹ so với tháng trước đó, do nước tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc – gia tăng nhập khẩu nguyên liệu để mở rộng đàn gia súc. Cùng với xu hướng tăng giá thế giới, giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu trong nước cũng tăng, do nhu cầu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cho dịp Tết dương lịch và Tết nguyên đán tăng mạnh.

 

I.       TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

 

1.       Diễn biến giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 11/2013:

 

Giá thức ăn chăn nuôi (TĂCN) và nguyên liệu thế giới tháng 11/2013 tăng so với tháng trước đó, lần đầu tiên tăng trong 5 tháng trở lại đây, do nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – gia tăng nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi để mở rộng đàn gia súc lên gần gấp đôi số lượng 2 thập kỷ trước đây. Tính chung, trong 11 tháng đầu năm 2013, giá TĂCN và nguyên liệu thế giới vẫn giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2012.

 

Mặc dù, sản lượng đậu tương toàn cầu niên vụ 2013/14 dự kiến tăng lên mức cao kỷ lục 283,54 triệu tấn, cùng với vụ mùa bội thu ở khu vực Nam Mỹ nhưng giá đậu tương tháng 11/2013 vẫn tăng nhẹ, từ mức 472,83 USD/tấn đạt được hồi tháng 10/2013, tăng 5,5% lên 498,62 USD/tấn nhưng giảm 6% so với cùng tháng năm ngoái, do nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc hồi phục sau kỳ nghỉ Quốc khánh 1 tuần vào tháng trước. 

 

Cùng với xu hướng tăng của giá đậu tương thì giá bột cá cũng tăng nhẹ, từ mức 1.520,09 USD/tấn đạt được hồi tháng 10/2013, tăng 10,41 USD/tấn (tương đương với 0,7%) lên 1.530,5 USD/tấn nhưng giảm mạnh 19,5% so với cùng tháng năm 2012. Nguyên nhân giá bột cá tăng, do nguồn cung toàn cầu thắt chặt cùng với nhu cầu bột cá tăng cao vào những tháng cuối năm đã đẩy giá bột cá tăng lên.

 

Với điều kiện thời tiết thuận lợi ở khu vực vành đai trồng ngô của nước sản xuất và xuất khẩu ngô hàng đầu thế giới – Mỹ - nâng dự kiến sản lượng ngô thế giới niên vụ 2013/14 đạt mức cao kỷ lục 962,83 triệu tấn, tăng 12,3% so với cùng kỳ niên vụ trước. Do vậy, giá ngô trên thị trường thế giới tháng 11/2013 giảm xuống còn 162,2 USD/tấn trong phiên giao dịch ngày 19/11/2013, giảm 20% so với tháng trước đó và giảm mạnh 50% so với cùng tháng năm ngoái, bất chấp nhu cầu của Trung Quốc tăng mạnh, do hạn hán và lũ lụt làm sản lượng ngô của nước này giảm lần đầu tiên trong 4 năm.

 

Triển vọng sản lượng vụ thu hoạch lúa mì toàn cầu niên vụ 2013/14 sẽ đạt mức cao 708,89 triệu tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ niên vụ trước, do thời tiết thuận lợi hậu thuẫn cây trồng lúa mì tại Argentina và khu vực biển Đen. Do vậy, giá lúa mì trong tháng 11/2013 giảm xuống còn 245,4 USD/tấn, giảm 15% so với tháng trước đó và giảm 29% so với cùng tháng năm ngoái.

 

Bảng 1: Biến động giá đậu tương, ngô, lúa mì và bột cá thế giới 11 tháng đầu năm 2013 (Đvt: USD/tấn)

 

2.       Dự báo nguồn cung và tình hình tiêu thụ thức ăn chăn nuôi & nguyên liệu tháng 12/2013:

Ngô:

 

Dự báo, sản lượng ngô thế giới niên vụ 2013/14 tăng mạnh đạt 962,83 triệu tấn, tăng 12,3% so với cùng kỳ niên vụ trước, do thời tiết ở nước trồng chủ yếu được cải thiện. Dự trữ ngô cuối kỳ của thế giới đạt 164,33 triệu tấn, tăng 29,47 triệu tấn so với đầu kỳ. Sự gia tăng này phần lớn do nước Mỹ có lượng dự trữ tăng – nước có thời tiết thuận lợi đã hậu thuẫn khu vực vành đai trồng ngô của nước này, tăng 27,02 triệu tấn lên 47,94 triệu tấn. Tiếp theo đó là Nam Phi tăng 0,03 triệu tấn, lên 3,23 triệu tấn; Argentina tăng 0,01 triệu tấn, lên 0,91 triệu tấn. Quốc gia có lượng giảm không đáng kể chủ yếu là những nước nhập khẩu như Ai Cập, Hàn Quốc … Tuy nhiên, FSU-12 lại trái ngược hoàn toàn với xu hướng này, niên vụ 2013/14 nguồn dự trữ cuối kỳ của nước này dự kiến đạt 4,3 triệu tấn, tăng 2,31 triệu tấn so với đầu kỳ; tương tự Mexico dự kiến đạt 2,56 triệu tấn, tăng 1,55 triệu tấn; Ukraine đạt  2,67 triệu tấn, tăng 1,45 triệu tấn và Canada dự kiến đạt 2,25 triệu tấn, tăng 0,7 triệu tấn.

 

Với điều kiện thời tiết thuận lợi, dự báo niên vụ 2013/14 sản lượng ngô Mỹ sẽ đạt 355,33 triệu tấn, trở thành nước có lượng ngô dư thừa nhiều nhất thế giới, niên vụ này sau khi trừ đi lượng tiêu thụ trong nước, nước này còn dư thừa khoảng 61,95 triệu tấn. FSU-12 giữ  vị trí thứ hai với lượng dư thừa 22,82 triệu tấn, tiếp đến là Ukraine với lượng dư thừa 19,4 triệu tấn, Argentina với lượng dư thừa 18 triệu tấn và Brazil với lượng dư thừa là 15 triệu tấn. Ngược với xu hướng của các quốc gia trên, Nhật Bản là quốc gia có lượng thiếu hụt ngô lớn nhất thế giới với 15,5 triệu tấn cho niên vụ 2013/14, tiếp đến là Hàn Quốc với 9,02 triệu tấn, Mexico với 8,8 triệu tấn, các quốc gia Đông Nam Á với 7,65 triệu tấn, Ai Cập với 6,1 triệu tấn, và Trung Quốc với 5 triệu tấn; và sau cùng là EU-27 với 4,71 triệu tấn … Hầu hết các quốc gia thiếu hụt đều phải nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu sử dụng.

 

Bảng 2: Dự báo cung cầu ngô thế giới tháng 12/2013 (triệu tấn)

Nguồn: USDA

 

Đậu tương:

 

Bảng 3: Dự báo cung cầu đậu tương thế giới  tháng 12/2013(triệu tấn)

Nguồn: USDA

 

Dự báo, tổng sản lượng đậu tương thế giới niên vụ 2013/14 sẽ đạt 283,54 triệu tấn, tăng 14,43 triệu tấn so với niên vụ trước do thời tiết dự báo sẽ được cải thiện ở cả 3 quốc gia trồng đậu tương hàng đầu thế giới Mỹ, Brazil, Argentina. Trong đó nhu cầu tiêu thụ là 270 triệu tấn, lượng đậu tương thế giới dư thừa khoảng 13,54 triệu tấn. Quốc gia có lượng dư thừa nhiều nhất là Brazil với 47,9 triệu tấn, vượt Mỹ trở thành nước sản xuất đậu tương hàng đầu thế giới do điều kiện thời tiết thuận lợi hậu thuẫn cây trồng đậu tương, tiếp theo là Mỹ với lượng dư thừa là 37,55 triệu tấn, giảm mạnh 13,77 triệu tấn so với dự báo của USDA hồi tháng 8 do hạn hán ở khu vực trung tây Mỹ ảnh hưởng đến cây trồng đậu tương; Argentina với 13,32 triệu tấn. Ngược lại, dự báo niên vụ 2013/14 những quốc gia có lượng thiếu hụt đậu tương nhiều nhất là Trung Quốc với 67,3 triệu tấn, tăng 4,07 triệu tấn so với niên vụ trước do nước này có mở rộng đàn gia súc dẫn đến nhu cầu về thức ăn chăn nuôi của nước này tăng mạnh; thứ hai là EU-27 với 12,02 triệu tấn, tiếp theo là Mexico là 3,56 triệu tấn và sau cùng là Nhật Bản với 2,81 triệu tấn, tăng 0,09 triệu tấn so với niên vụ trước. Đây là những quốc gia nằm trong top những nước có nhu cầu sử dụng đậu tương lớn đều bị thâm hụt giữa sản lượng so với nhu cầu tiêu thụ. Đặc biệt là trong những quốc gia này, sản lượng trong nước chỉ đáp ứng được 1 phần rất nhỏ trong tổng nhu cầu tiêu thụ của mình, nhu cầu tiêu thụ nội địa của Trung Quốc gấp hơn 6 lần sản lượng sản xuất được, tương tự như vậy EU gấp hơn 13 lần, Mexico gấp hơn 13 lần và Nhật Bản gấp hơn 14 lần. Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa của mình các quốc gia này sẽ phải nhập khẩu đậu tương trong niên vụ này, với sản lượng nhập khẩu tương ứng là 69 triệu tấn, EU-27 là 12,1 triệu tấn, Mexico nhập khẩu 3,55 triệu tấn, Nhật Bản là 2,76 triệu tấn.

 

Lúa mì

 

Bảng 4: Dự báo cung cầu lúa mì thế giới tháng 12/2013 (triệu tấn)

Nguồn: USDA

 

Dự báo, tổng sản lượng lúa mì thế giới niên vụ 2013/14 sẽ đạt 706,38 triệu tấn, giảm 2,51 triệu tấn so với dự báo hồi tháng 9 và tăng 50,74 triệu tấn so với niên vụ trước do sản lượng lúa mì ở các nước xuất khẩu chính dự báo đều tăng. Nhu cầu tiêu thụ toàn cầu đạt 703,49 triệu tấn, lượng lúa mì thế giới dư thừa khoảng 2,89 triệu tấn. Quốc gia có lượng dư thừa nhiều nhất là FSU với 29,71 triệu tấn, thứ hai là Canada với 23,2 triệu tấn, thứ ba là Mỹ với 21,68 triệu tấn, thứ tư là EU-27 với 21,59 triệu tấn, tiếp theo là Australia với 18,95 triệu tấn, Nga với 16,5 triệu tấn, sau cùng là Argentina với 4,95 triệu tấn. Đây là những quốc gia xuất khẩu lúa mì chủ yếu  trên toàn cầu.

 

Ngược với xu hướng trên, quốc gia có lượng lúa mì thiếu hụt nhiều nhất là Bắc Phi với 21,65 triệu tấn, thứ hai là Trung Đông với 16,55 triệu tấn, tiếp theo là các nước Đông Nam á với 15,82 triệu tấn phụ thuộc 100% vào nhập khẩu do không sản xuất được, Brazil với 6,65 triệu tấn và sau cùng là Trung Quốc với 4,5 triệu tấn. Đặc biệt là trong những quốc gia này, sản lượng lúa mì trong nước chỉ đáp ứng được 1 phần rất nhỏ trong tổng nhu cầu tiêu thụ của mình. Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa của mình dự kiến các quốc gia này sẽ phải nhập khẩu lúa mì trong niên vụ 2013/14, với sản lượng nhập khẩu tương ứng là 21,9 triệu tấn; 19,01 triệu tấn; 16,1 triệu tấn;  7,7 triệu tấn và 8,5 triệu tấn.

 

Bột cá:

 

Xuất khẩu bột cá Peru năm 2013 dự kiến đạt 980.000 tấn. Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu hàng đầu đối với bột cá của Peru chiếm 50% thị phần trong năm 2012. Các thị trường chủ yếu khác là Đức (14%) và Nhật Bản (9%).

 

Nhập khẩu bột cá của Trung Quốc trong 8 tháng đầu năm 2013 đạt 881.900 tấn, tăng 6,21% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong số đó, 60% đến từ Peru, số còn lại từ Chi lê, Mỹ, Nga, Việt Nam và Mexico.

 

Triển vọng giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu  tháng 12/2013:

 

Dự báo, giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu thế giới tháng 12/2013 sẽ tăng nhẹ, do nguồn cung nguyên liệu chế biến TĂCN như đậu tương, bột cá thắt chặt, thêm vào đó là nhu cầu TĂCN của nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là nước tiêu thụ TĂCN lớn nhất thế giới – Trung Quốc – tăng mạnh vào thời điểm gần Tết dương lịch và Tết nguyên đán.

 

II.          TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC          

 

1.          Biến động giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 11/2013.

 

Cùng với xu hướng tăng lên của giá thế giới, giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu của Việt Nam trong tháng 11/2013 tăng nhẹ so với hồi tháng 10/2013, do giá nhập khẩu một số nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như khô đậu tương, bột cá… thị trường thế giới tăng nhẹ, tác động tới giá thức ăn chăn nuôi. Hiện tại, giá cám gạo duy trì ở mức 5.900 -6.400 đ/kg, giá ngô giảm nhẹ, giảm 200 đ/kg so với tháng trước đó, xuống còn 5.600-6.300 đ/kg, giá khô đậu tương tăng 3,1% so với tháng trước lên 13.200 đ/kg nhưng giảm 7% so với tháng đầu năm và giá bột cá không thay đổi ở mức 14.000-20.000 đ/kg .

 

Giá bán thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam hiện đang cao hơn các nước trong khu vực từ 15-20% và lợi nhuận thu về từ 3-7%. Đây là mức lợi quá cao so với các nước trên thế giới, vốn chỉ từ 1%-1,5%. Sở dĩ giá TACN trong nước cao hơn các nước trong khu vực là do có quá nhiều chi phí, như phí vận chuyển đến Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Các chi phí kiểm nghiệm không chỉ mất nhiều thời gian mà còn bị rủi ro phải tái xuất lô hàng, nếu không đạt tiêu chuẩn. Nhiều khoản thuế, kể cả thuế giá trị gia tăng mà nhiều nước trên thế giới không áp dụng cho ngành nông nghiệp, chăn nuôi.

 

2.       Thực trạng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu trong tháng 11/2013 và một số vấn đề tồn tại:

 

Từ đầu năm đến nay, giá TĂCN trong nước đã tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2012. Nguyên nhân một phần do phải nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu TĂCN, bình quân khoảng 8 triệu tấn/năm. Trong đó, các loại nguyên liệu giàu đạm như khô dầu đậu tương, bột xương thịt, bột cá nhập tới 90% và khoáng chất, vitamin, phụ gia phải nhập khẩu 100%.

 

Bên cạnh yếu tố phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, theo Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), tình trạng tăng giá của TĂCN là do việc điều hành giá mặt hàng này nằm trong tay các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất tại Việt Nam. Hiện, cả nước có hơn 200 doanh nghiệp sản xuất TĂCN với 57 nhà máy, trong đó doanh nghiệp nước ngoài chỉ có trên 20 nhà máy nhưng chiếm thị phần tới 60 - 65%. Các doanh nghiệp này chỉ giữ lại khoảng 10% lượng thức ăn sản xuất ra để chăn nuôi gia công, còn lại bán ra thị trường cho các trang trại, hộ chăn nuôi. Theo tính toán, chỉ cần bán TĂCN với giá 8.000 đồng/kg các doanh nghiệp đã có lãi nhưng hiện giá bán trên thị trường đều ở mức trên 11.000 đồng/kg và người chịu thiệt không ai khác chính là các hộ chăn nuôi trong nước.

 

Hiện các hộ chăn nuôi trong nước đang phải chịu 5% thuế VAT khi mua TĂCN, làm đội giá sản phẩm thêm 1.500 đồng/kg. Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài như CP, Japfa... được đầu tư khép kín theo chuỗi từ con giống, thức ăn đến tiêu thụ đầu ra nên chi phí sẽ giảm hơn so với chăn nuôi nhỏ lẻ của người nông dân. Bởi vậy, người chăn nuôi trong nước vẫn rất khó cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Để tạo động lực cho người chăn nuôi phát triển sản xuất, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành vào cuộc trong điều hành giá TĂCN một cách hợp lý. Ngoài ra, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, ngành nông nghiệp cần thay đổi cơ cấu sản xuất để tận dụng tối đa nguyên liệu sẵn có trong nước để sản xuất TĂCN, tránh tình trạng phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.

 

3.       Tình hình nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu:

 

Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu trong tháng 10 đạt 256 triệu USD, giảm 15,32% so với tháng trước đó nhưng tăng 9,6% so với cùng tháng năm ngoái. Tính chung 10 tháng đầu năm 2013, Việt Nam đã chi 2,63 tỉ USD nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu, tăng 33,35% so với cùng kỳ năm trước.

 

Nhìn chung, 10 tháng đầu năm 2013, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu của Việt Nam từ các thị trường chính đều tăng về kim 782 nghìn USD, tăng 665,24% so với cùng kỳ; đứng thứ hai là Oxtrâylia với 24 triệu USD, tăng 257,08% so với cùng kỳ, tiếp theo đó là Thái Lan với 119,5 triệu USD, tăng 91,95% so với cùng kỳ; Achentina với 902 triệu USD, tăng 63,32% so với cùng kỳ; sau cùng là Brazil với 223 triệu USD, tăng 57,1% so với cùng kỳ.

 

Các thị trường chính cung cấp TĂCN và nguyên liệu chính cho Việt Nam trong tháng 10/2013 vẫn là Achentina, Brazil, và Hoa Kỳ... Trong đó, Achentina là thị trường chủ yếu Việt Nam nhập khẩu mặt hàng này với gần 128 triệu USD, tăng 47,86% so với cùng tháng năm ngoái nhưng lại giảm 15,55% so với tháng trước đó, nâng kim ngạch nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu từ nước này 10 tháng đầu năm 2013 lên 902 triệu USD, chiếm 34,3% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng, tăng 63,32% so với cùng kỳ năm trước – dẫn đầu về thị trường cung cấp TĂCN và nguyên liệu cho Việt Nam. Sự tăng mạnh về kim ngạch nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu từ Achentina trong 10 tháng đầu năm 2013 do nguồn nguyên liệu từ thị trường này dồi dào.

 

Kế đến là thị trường Brazil với kim ngạch nhập khẩu trong tháng 10 là 21,7 triệu USD, giảm 55,22% so với tháng 9/2013 và tăng 99,58% so với cùng tháng năm ngoái. Tính chung 10 tháng đầu năm 2013, Việt Nam đã nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu từ thị trường này là 223 triệu USD, tăng 57,1% so với cùng kỳ năm trước.

 

Đứng thứ ba về kim ngạch nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu trong 10 tháng đầu năm 2013 là Hoa KỳBrazil với trị giá gần 319,8 triệu USD, tăng 49,3% so với cùng kỳ năm trước.

 

Ngoài ba thị trường kể trên, Việt Nam nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu từ các thị trường khác nữa như: Ấn Độ, Italia, Thái Lan và Trung Quốc với kim ngạch đạt lần lượt trong 10 tháng đầu năm là 290 triệu USD; 174,8 triệu USD; 119,5 triệu USD và 113,8 triệu USD…

 

Kim ngạch nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2013:

 

Thống kê của TCHQ (Đvt: USD)

 

4.                 Đề xuất, kiến nghị:

 

Hiện tại, giá ngô trong nước đang ở mức thấp do nhiều địa phương được mùa, vì vậy các doanh nghiệp trong nước nên tranh thủ cơ hội mua nguồn nguyên liệu giá rẻ để chế biến, hạn chế nhập khẩu.

 

Về lâu dài, để ngành chăn nuôi phát triển ổn định trong những tháng cuối năm và các năm tiếp theo:

 

Thứ nhất, cần tăng cường mối liên doanh, liên kết giữa nhà máy sản xuất TĂCN và người nông dân để bảo đảm bao tiêu sản phẩm. Bằng cách này, doanh nghiệp (DN) có thể trực tiếp bán TĂCN cho nông dân mà không cần qua các khâu trung gian, như vậy giá thành sẽ giảm hơn. Vì vậy, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác quy hoạch vùng trồng nguyên liệu, Bộ NN&PTNT cũng nghiên cứu chuyển đổi một phần diện tích trồng lúa sang trồng ngô để phục vụ cho ngành sản xuất TĂCN. Cơ quan nghiên cứu của các bộ cần nghiên cứu các loại thức ăn phụ gia, vitamin để sản xuất trong nước, tiến tới không còn tình trạng mua nguyên liệu TĂCN của nước ngoài 100%. Nếu không có những chính sách hỗ trợ các DN sản xuất thức ăn trong nước và người nông dân để họ tự chủ động nguyên liệu tại chỗ thì đến vài chục năm nữa, Việt Nam vẫn phải đi nhập khẩu TĂCN.

 

Thứ hai, chúng ta có thể dùng lúa gạo làm thức ăn chăn nuôi nhằm giảm giá thành và nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn chăn nuôi:

 

 Sản lượng thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam đã và đang không ngừng gia tăng trong khoảng mười năm trở lại đây. Với mức độ khoảng 14 triệu tấn/năm (số liệu ước tính) và sẽ còn tiếp tục tăng lên nữa, thì các nguyên liệu cung năng lượng như thóc, các loại cám, tấm, ngô, sắn, lúa mì và dầu mỡ phải đảm bảo được ít ra là 9 triệu tấn mỗi năm (tính trung bình các nguyên liệu cung năng lượng chiếm 60 – 70% trong công thức thức ăn).

 

Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, sản lượng lúa năm 2012 là trên 44 triệu tấn thì lượng cám gạo theo lý thuyết có được khoảng 4,2 triệu tấn (10% lúa); sản lượng ngô 4,8 triệu tấn; sắn 9,8 triệu tấn và nếu tất cả được sử dụng cho sản xuất thức ăn chăn nuôi thì Việt Nam không thiếu các nguyên liệu cung năng lượng để đến mức phải nhập khẩu lúa mì, ngô và đôi khi cả cám gạo (cám trích ly) với số lượng hàng triệu tấn, trị giá cả tỉ USD mỗi năm.

 

Tuy nhiên một thực tế là những năm qua số lượng nhập khẩu các loại ngô, lúa mì vẫn gia tăng đáng kể do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc doanh nghiệp chưa thể tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Trong tình hình hiện nay, khi giá lúa gạo trong nước và xuất khẩu đang ở mức rất thấp, liệu chúng ta có nên đưa loại lương thực này sử dụng làm nguyên liệu thức ăn để giảm bớt số lượng nhập khẩu?

 

 5.      Dự báo thị trường thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 12/2013.

 

Dự báo, giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tháng 12/2013 sẽ tăng nhẹ, do nhu cầu TĂCN và nguyên liệu trong nước thường tăng mạnh trong dịp Tết dương lịch và Tết nguyên đán.

 

Theo VINANET.

Trở lại      In      Số lần xem: 2819

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Xuất khẩu cao su tăng về lượng nhưng giảm về kim ngạch
  • Tổng hợp tin thị trường gạo ngày 13/4
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 13/4/2016
  • Báo cáo ngành hàng rau quả tháng 4/2016
  • Báo cáo mặt hàng chè tháng 4/2016
  • Giá gạo xuất khẩu tháng 4-2016
  • Báo cáo mặt hàng thịt tháng 4/2016
  • Báo cáo mặt hàng phân bón tháng 4/2016
  • Báo cáo ngành hàng hạt điều tháng 4/2016
  • Thị trường đường thế giới quý I/2016 và dự báo
  • Quý I/2016, xuất khẩu hàng rau quả tăng trưởng dương ở các thị trường
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 12/5/2016
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 30/5/2016
  • Thị trường thức ăn chăn nuôi quý I/2016 và dự báo
  • Báo cáo ngành hàng lúa gạo tháng 5/2016
  • Vào vụ mía mới, giá mía nguyên liệu tăng
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 25/5/2016
  • Xuất khẩu gạo: Campuchia tiến lên, Việt Nam tụt xuống
  • Thị trường NL TĂCN thế giới ngày 6/7: Giá ngô giảm do dự báo thời tiết Mỹ
  • Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước nhập khẩu đậu tương nhiều nhất thế giới
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD