Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  14
 Số lượt truy cập :  33459610
Thị trường lúa gạo năm 2015 và dự báo 2016
Thứ sáu, 22-01-2016 | 08:20:32

Thị trường gạo xuất khẩu thế giới trầm lắng trong gầm suốt 3 quý đầu năm trong bối cảnh nguồn cung dồi dào nhưng nhu cầu yếu. Từ cuối quý III, thị trường sôi động trở lại khi Philippines và Indonesia tích cực mua vào. Thời tiết bất thường do El Nino đang và dự báo sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới sản lượng lúa thế giới, sẽ hỗ trợ giá trong thời gian tới.

 

I.   DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG

 

Thị trường gạo châu Á tháng 12 có rất ít hợp đồng mới được ký kết, trong bối cảnh nhu cầu không cao và nguồn cung cũng hạn hẹp. Các kỳ nghỉ lễ dài ngày cuối năm sắp tới là lý do chính làm thiếu vắng khách hàng. Giá gạo xuất khẩu châu Á diễn biến trái chiều, tương đối ổn định tại Việt Nam, nhưng giảm khoảng 10 USD/tấn tại Thái Lan và tăng khoảng 10-15 USD/tấn tại Ấn Độ và Pakistan.

 

Thị trường gạo đang trong tình trạng bất ổn chung như hầu hết các thị trường hàng hóa khác.

 

Năm 2015 giá gạo xuất khẩu có một sóng giảm giá tiếp diễn từ quý III/2014 kéo dài từ đầu năm 2016 trung tuần tháng 9, và một đợt sóng tăng giá từ trung tuần tháng 9 tới đầu tháng 11.

 

Tính chung trong năm 2015, giá gạo trung bình thế giới đã giảm khoảng 11% (khoảng 45 USD/tấn), từ 431 USD/tấn xuống 389 USD/tấn. Nguồn cung dồi dào và nội tệ của những nước xuất khẩu chủ chốt giảm giá là những lý do chính khiến giá gạo xuất khẩu năm qua sụt giảm.

 

Tỷ giá tiền tệ của một số nước xuất khẩu gạo chủ chốt

 

Tiền tệ

+/-

19/12/2014

17/12/2015

Baht Thái Lan

-10%

32.7550

36.0240

Rupee Ấn Độ

-6,3%

62.3795

66.2817

Đồng Việt Nam

-5%

21.158,7

22.185,4

Rupee Pakistan

-4,2%

99.8595

104.032

 

Nguyên nhân khiến giá giảm liên tiếp trong vòng một năm tính tới quý III/2015 là bởi nguồn cung dồi dào, nhất là ở những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, trong khi nhu cầu nhập khẩu thấp. Khách hàng chỉ mua những hợp đồng nhỏ. Nhiều khách hàng truyền thống nỗ lực theo đuổi chính sách tự cung tự cấp nên kiềm chế không mua vào.

 

Nội tệ của các nước xuất khẩu lớn giảm giá cũng là một trong những nguyên nhân khiến giá gạo xuất khẩu giảm, bởi khách hàng có lý do ép giá. Với riêng Việt Nam, việc tiền đồng giảm giá ít hơn so với tiền baht Thái và tiền rupee Ấn Độ là một trong những nguyên nhân khiến cho giá gạo Việt trở nên đắt hơn so với hai đối thủ cạnh tranh này.

 

Nhưng bắt đầu từ cuối tháng 9, thị trường sôi động trở lại khi Philippines mở thầu mua 750.000 tấn gạo, một trong những dấu hiệu cho thấy giai đoạn khó khăn nhất trong năm đã qua. Tiếp sau đó, Philippines ký thêm hợp đồng mua, Indonesia, Nigeria… cũng bắt đầu tìm kiếm gạo. Khách hàng Trung Quốc cũng quay trở lại mua gạo Việt sau nhiều tuần vắng bóng.

 

Việc El Nino gây khô hạn và ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng lúa đã khiến các nước nhập khẩu không thể trì hoãn việc nhập khẩu lâu hơn nữa, nên quyết định mua vào, nhất là khi giá gạo đang rẻ.

 

 

Gạo 5% tấm của Việt Nam giá giảm nhẹ từ mức 375-380 USD/tấn (FOB cảng Sài Gòn) trong tuần cuối tháng 11 xuống 375-378 USD/tấn tuần cuối tháng 12 (giảm khoảng 2-5 USD/tấn), trong khi gạo 25% tấm giá giảm từ 362-365 USD/tấn xuống 355 USD/tấn. Trong vòng một năm qua, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đã giảm khoảng 20 USD/tấn (khoảng 6%).

 

Sau khi chạm mức thấp nhất 8 năm vào cuối tháng 8, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng trở lại cuối quý III khi ký được hợp đồng bán 450.000 tấn gạo cho Philippines, và tiếp tục tăng sau khi ký được hợp đồng bán 1 triệu tấn cho Indonesia, và hiện vẫn duy trì ở mức cao bởi nguồn cung hạn hẹp khi vụ cũ đã thu hoạch xong còn vụ mới phải chờ tới tháng 2 năm sau, và các nhà xuất khẩu đang tích cực thực hiện các hợp đồng lớn đã ký với khách hàng Indonesia và Philippines.

 

Giá gạo Việt Nam hiện đang ở mức khá cao so với gạo cùng loại của các nước xuất khẩu trong khu vực bởi nhu cầu mới thấp nhưng nguồn cung cũng khan hiếm giữa lúc giao vụ, bởi vụ thu hoạch mới ở ĐBSCL phải chờ tới cuối tháng 2/2016, trong bối cảnh các nhà xuất khẩu đang thực hiện hợp đồng với Indonesia và Philippines với tổng khối lượng 1,45 triệu tấn. Gần đây hầu như không có đơn đặt hàng mới nào, mà giao dịch chủ yếu là theo các hợp đồng liên chính phủ.

 

Gạo Thái Lan tháng 12 giảm giá do thiếu vắng nhu cầu mới trong khi đồng baht tiếp tục giảm giá mà các kho dự trữ còn rất nhiều. Gạo 5% tấm của Thái Lan hiện ở mức 345 – 355 USD/tấn, , FOB Bangkok, giảm 10 USD/tấn so với mức 360 – 365 USD/tấn hồi cuối tháng 11, và giảm khoảng 55 USD/tấn so với cuối năm 2014.

 

Gạo Ấn Độ giá tăng nhẹ do lo ngại sản lượng giảm vì hiện tượng El Nino khiến lượng mưa trong mùa thấp hơn mức trung bình. Gạo 5% tấm xuất khẩu của Ấn Độ giá tăng khoảng 10% trong vòng một tháng, lên 360 USD/tấn hiện nay. Giá gạo nội địa tại Ấn Độ cũng tăng nhẹ khoảng 1% lên trung bình 2.614,61 rupee/tạ trong tháng 11, dù vẫn thấp hơn khoảng 6% so với cùng kỳ năm ngoái.

 

Gạo Pakistan giá tăng khá mạnh trong vòng một tháng qua bởi nhu cầu gạo xuất khẩu gia tăng khi giá gạo nước này rẻ nhất khu vực. Loại 5% tấm giá tăng khoảng 15 USD/tấn lên 335 USD/tấn hiện nay. Tuy nhiên, so với một năm trước đây, giá hiện vẫn thấp hơn khoảng 40 USD/tấn (khoảng 11%).

 

Gạo 5% tấm của Campuchia tăng khoảng 10 USD/tấn trong vòng một tháng qua, nhưng cũng giảm khoảng 35 USD/tấn so với một năm trước. Hiện loại 5% tấm có giá 430 USD/tấn.

 

Gạo 5% tấm của Myanmar giá hiện khoảng 415 USD/tấn, tăng khoảng 5 USD/tấn so với một tháng trước do năng suất thấp và nhu cầu cao từ phía khách hàng Trung Quốc.

 

 

Trên thị trường trong nước, giá lúa gạo biến động theo xu hướng giá xuất khẩu. Thời điểm giá thấp nhất trong năm là vào cuối tháng 9, nhưng đã hồi phục sau đó, và giá cuối năm 2015 gần như ổn định so với một năm trước đó.

 

Giá lúa gạo nguyên liệu tại ĐBSCL (đồng/kg)

Loại lúa, gạo

22/12/2014

23/1/2015

22/3/2015

20/6/2015

23/9/2015

23/12/2015

Lúa khô tại kho loại thường

5.450-5.550

5.300 – 5.400

5.250-5.350

5.000-5.100

4.900– 5.000

5.500-5.600

Lúa dài

5.650-5.750

5.650 – 5.750

5.500-5.600

5.300-5.400

5.200 – 5.300

5.650-5.750

Gạo nguyên liệu loại 1 làm ra gạo 5% tấm

7.100-7.200

6.900 – 7.000

6.600-6.700

6.350- 6.450

6.250 – 6.350

7.050-7.150

Gạo nguyên liệu làm ra gạo 25% tấm

6.850-6.950

6.700 – 6.800

6.350-6.450

6.100- 6.200

6.100 – 6.200

6.900-7.000

Gạo thành phẩm 5% tấm không bao bì tại mạn

8.100-8.200

7.900 – 8.000

7.450-7.550

7.300-7.400

7.100 – 7.200

8.100-8.200

Gạo 15% tấm

7.700-7.800

7.600 – 7.700

7.300-7.400

7.050-7.150

6.800 – 6.900

7.850-7.950

Gạo 25% tấm

7.350-7.450

7.250 – 7.350

7.000-7.100

6.850-6.950

6.700 – 6.800

7.650-7.750

Nguồn: Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA)

 

II. CUNG – CẦU

 

Nguồn cung lúa gạo tại châu Á – vựa lúa thế giới – năm 2015 nhìn chung dồi dào khi tồn trữ của chính phủ Thái Lan và Ấn Độ dù giảm song vẫn còn ở mức rất cao và các nước xuất khẩu lớn khác cũng dư dả nguồn cung. Các nước nhập khẩu truyền thống tiếp tục nỗ lực vì mục tiêu sản xuất đủ gạo bằng các sách hỗ trợ tích cực và thiết thực, bảo vệ diện tích trồng lúa, giảm hậu quả của hạn hán.

 

Tuy nhiên, thời tiết bất thường đã xảy ra ở nhiều nơi. Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia và cả Philippines đều bị hạn hán nặng nề do El Nino.

 

Về nhu cầu, nhu cầu yếu trong suốt 3 quý đầu năm bởi không có hợp đồng nào lớn, và một số khách hàng có tâm lý chờ đợi giá giảm thấp trước khi mua vào. Nhưng thời tiết diễn biến thất thường đã khiến những khách hàng truyền thống như Indonesia và Philippines đều tích cực mua gạo trong những tháng cuối năm 2015, để ngăn ngừa lạm phát giá trong nước. Và đây là lý do chính khiến cho giá hồi phục mạnh trong quý IV.

 

1.   Các nước xuất khẩu chủ chốt

 

1.1 Thái Lan

 

Theo số liệu của Hiệp hội Xuất khẩu Gạo Thái Lan (TREA), xuất khẩu gạo trong 10 tháng đầu năm 2015 đạt 7,814 triệu tấn, trị giá 3,643 tỷ USD, giảm 11% khối lượng so với 8,77 triệu tấn và giảm 15% giá trị so với 4,32 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái.

 

Trung Quốc, Benin, Nigeria, Nam Phi và Philippines tiếp tục là thị trường xuất khẩu chính của gạo Thái Lan trong 10 tháng đầu năm 2015. Trong khi xuất khẩu gạo của Thái Lan sang Trung Quốc, Nam Phi và Philippines tăng tương ứng 26%, 7% và 274%, thì xuất khẩu sang Benin và Nigeria tương ứng giảm 34% và 36%.

 

Bộ Thương mại ước tính xuất khẩu trong cả năm 2015 sẽ đạt mục tiêu 10 triệu tấn, nhưng kim ngạch xuất khẩu sẽ giảm xuống 4,85 tỷ USD, thấp hơn so với mục tiêu 5,1 tỷ USD, chủ yếu là do giá gạo xuất khẩu giảm.

 

Hiện Thái Lan còn 13 triệu tấn lúa lưu kho, trong đó 7-8 triệu tấn có chất lượng tốt.

 

USDA Post dự báo sản lượng lúa Thái Lan niên vụ 2015-2016 đạt 24,85 triệu tấn, giảm 15% so với 29,4 triệu tấn năm 2014-2015 do thời tiết khô hạn và thiếu nước tưới tiêu. Tuy nhiên Bộ Thương mại Thái dự báo sản lượng có thể giảm 30% xuống 22,98 triệu tấn.

 

Chủ tịch danh dự Hiệp hội Xuất khẩu Gạo Thái Lan (TREA) nhận đinh giá gạo xuất khẩu của Thái Lan sẽ tăng thêm 10-15% trong quý I/2016 và thêm 10-15% nữa trong quý II/2016 nếu tình trạng khô hạn tiếp tục kéo dài.

 

1.2 Việt Nam

 

Vụ Đông - Xuân ở ĐBSCL có thể bị ảnh hưởng bởi khô hạn kéo dài do El Nino khiến nhiều diện tích đất ở ĐBSCL bị nhiễm mặn. Mức nước ở ĐBSCL hiện thấp nhất kể từ 1926, và tình trạng nhiễm mặn có thể trầm trọng thêm trong vài tháng tới. Vụ thu hoạch tới sẽ diễn ra vào khoảng tháng 2 năm sau mới cho thu hoạch (vụ Đông xuân ở ĐBSCL), tức là từ nay tới đó nguồn cung sẽ khan hiếm.

 

Xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2015 ước đạt gần 6,7 triệu tấn và 2,85 tỷ USD, tăng 5,8% về khối lượng nhưng giảm 2,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014, theo số liệu của Bộ NN&PTNT. Khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm so với cùng kỳ liên tục trong 10 tháng đầu năm 2015, chỉ tăng so với cùng kỳ vào tháng 11 và tháng 12 năm 2015. Giá xuất khẩu bình quân đạt khoảng 410,56 USD/tấn (FOB), giảm 7% so với 441,38 USD/tấn cùng kỳ năm trước.

 

 

Châu Á vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của gạo Việt Nam, chiếm trên 70%.

 

Theo giới chuyên gia, giá xuất khẩu gạo giảm do các đơn hàng gạo chủ yếu là loại 25% tấm và 5% tấm giá trị thấp từ Indonesia và Philippines, mặc dù xuất khẩu gạo thơm đang có xu hướng tăng.

 

Dòng gạo cao cấp Việt Nam đang ngày càng chiếm ưu thế với mức giá liên tục tăng. Xuất khẩu gạo chất lượng cao trong 9 tháng đầu năm 2015 tăng 17% so với cùng kỳ năm 2014, đạt 1,2 triệu tấn, chiếm 26% trong tổng khối lượng gạo xuất khẩu trong giai đoạn này. Lợi nhuận mà dòng sản phẩm cao cấp mang lại hấp dẫn hơn nhiều so với hàng phổ thông và cấp thấp.

 

Dòng sản phẩm gạo dược liệu (gạo có hàm lượng dinh dưỡng cao) cũng hút hàng. Thực tế cho thấy một bộ phận người VN có điều kiện kinh tế cũng có nhu cầu ăn gạo cao cấp, gạo dược liệu giàu dinh dưỡng. Trang Tuoitre đưa tin, khách hàng châu Âu tìm đến tận ruộng đặt mua lúa dinh dướng với giá rất cao. Đó là loại gạo Ngọc đỏ hương dứa, cho 8,75% protein, 1,85% glucose và 9,84mg chất sắt... trong 100 gr gạo, rất tốt cho sức khỏe, đặc biệt là người cao tuổi và người bệnh tim mạch, béo phì, tiểu đường... Lúa dược liệu có năng suất khá cao (5-8 tấn/ha, tùy vụ), giá bán cao nhưng vì loại này mới có gần đây, chưa được sản xuất đại trà, có bao nhiêu doanh nghiệp mua hết bấy nhiêu nên người tiêu dùng chưa có cơ hội mua sử dụng thử. Bộ NN&PTNT đã định hướng cho các địa phương quy hoạch, phát triển các vùng nguyên liệu lúa gạo theo từng phân khúc thị trường. Bên cạnh việc yêu cầu giảm tối đa diện tích lúa IR50404, đồng thời tăng diện tích lúa thơm và lúa gạo dinh dưỡng để ngoài việc sản xuất để xuất khẩu thì doanh nghiệp có thể mở rộng diện tích, đưa sản phẩm ra thị trường trong nước nhiều hơn để người tiêu dùng được tiếp cận, đánh giá và lựa chọn.

 

VFA dự đoán 2016 sẽ là năm khó khăn đối với các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam do nhu cầu của các nước nhập khẩu châu Á giảm trong 2 quý đầu năm và sự cạnh tranh gay gắt từ Thái Lan và Ấn Độ.

 

1.3 Ấn Độ

 

Cơ quan thường trú Bộ Nông nghiệp Mỹ tại Ấn Độ dự báo sản lượng gạo của nước này niên vụ 2015-2016 đạt 103 triệu tấn, giảm so với 104,8 triệu tấn niên vụ 2014-2015, và xuất khẩu gạo nước này niên vụ 2015-2016 đạt 9 triệu tấn, giảm 24% so với 11,8 triệu tấn năm trước do nguồn cung thắt chặt. Tuy nhiên, xuất khẩu trong niên lịch 2015 ước tính đạt kỷ lục 11,5 triệu tấn (đã đạt 8,7 triệu tấn trong 9 tháng đầu năm, và dự đoán sẽ tiếp tục duy trì trong 3 tháng cuối năm 2015 do giá nội địa ở mức thấp và nhu cầu xuất khẩu ổn định).

 

Tồn kho cuối vụ niên vụ 2015-2016 ước đạt 12,66 triệu tấn, giảm so với 17,7 triệu tấn niên vụ 2014-2015 và giảm so với 11,906 triệu tấn ước tính chính thức của USDA.

 

Chính phủ Ấn Độ đang theo dõi tác động của El Nino đối với lượng mưa trong mùa mưa tại nước này - được dự đoán thấp hơn 16% so với mức thông thường trong nửa cuối mùa mưa, kéo dài từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm. Phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (ASSOCHAM) cảnh báo giá có thể sẽ tăng trong những tháng tới, bởi sản lượng vụ kharif 2015 chắc chắn sẽ giảm nhẹ xuống 90,6 triệu tấn, so với 90,86 triệu tấn niên vụ 2014-2015.

 

1.4 Campuchia

 

Xuất khẩu gạo của Campuchia 10 tháng đầu năm 2015 đạt 408.169 tấn, tăng 34% so với 304.788 tấn cùng kỳ năm ngoái, theo Liên đoàn Lúa gạo Campuchia. Như vậy, mục tiêu xuất khẩu 1 triệu tấn gạo năm 2015 sẽ khó đạt, bởi thiếu cơ sở xay xát và cơ sở hạ tầng cũng như khả năng tiếp cận vốn.

 

Các thị trường xuất khẩu chính trong 10 tháng đầu năm là Trung Quốc với 83.577 tấn, Pháp 57.745 tấn và Ba Lan 46.125 tấn.

 

Thời tiết khô hạn kéo dài đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc xuống giống trên diện tích 185.451 ha đất lúa tại Campuchia, thiệt hại ước khoảng 450.000 tấn lúa. Sản lượng thóc năm 2015 của Campuchia ước tính giảm 1,5% so với năm trước xuống 9,18 triệu tấn.

 

Hiện Campuchia đang thực hiện kế hoạch tăng cường thâm nhập vào những thị trường mới. FAO ước tính, tổng xuất khẩu gạo của Campuchia (bao gồm cả xuất khẩu chính thức và không chính thức qua đường biên giới sang Thái Lan và Việt Nam) sẽ đạt 1,2 triệu tấn trong năm 2015, tăng 6% so với năm ngoái.

 

Trong một diễn biến khác, các nhà xuất khẩu Campuchia đang lên kế hoạch tăng xuất khẩu gạo thơm jasmine sang Mỹ như một phần trong nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

 

1.5 Myanmar

 

Vào đầu tháng 8/2015, Chính phủ Myanmar đã áp lệnh cấm xuất khẩu gạo nhằm hạn chế tình trạng thiếu hụt nguồn cung và giá cả tăng cao sau đợt lũ lụt lịch sử, song đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm này khoảng 1 tháng sau khi áp dụng. Chính phủ nối lại hoạt động xuất khẩu gạo qua đường biển nhưng tiếp tục cấm xuất khẩu qua các cửa khẩu biên giới trên bộ.

 

Liên đoàn Lúa gạo Myanmar (MRF) đã hạ dự báo xuất khẩu gạo của nước này năm 2015/16 xuống 1,6 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với 1,8 triệu tấn xuất năm 2014/15 và càng thấp hơn so với 2 triệu tấn dự tính trước đây.

 

2. Các nước nhập khẩu chủ chốt

 

2.1 Philippine

 

Trong 10 tháng đầu năm 2015, Philippines đã nhập khẩu 1,8 triệu tấn gạo, bởi lo ngại sản lượng lúa của nước này không thể đạt mục tiêu 20,09 triệu tấn do El Nino gây hạn hán và mấy cơn bão lớn.

 

USDA đã nâng dự báo về nhập khẩu gạo của Chính phủ Philippines niên vụ 2015 - 2016 (tháng 5/2015 - tháng 4/2016) lên 2 triệu tấn, từ mức 1,4 triệu tấn dự báo trước đây.

 

Chính phủ Philippines đã thông qua việc nhập khẩu 500.000 tấn gạo trong quý I/2016 và đang xem xét kế hoạch nhập khẩu thêm 1,3 triệu tấn trước khi quý II/2016 kết thúc.

 

Cục Thống kê Philippines (PSA) ước tính sản lượng lúa của Philippines năm 2015 có thể giảm 3,54% so với niên vụ trước xuống 18,3 triệu tấn, thấp hơn 9% so với mục tiêu 20,08 triệu tấn, do thời tiết khô hạn bởi hiện tượng El Nino và hàng loạt các cơn bão.

 

2.2 Indonesia

 

Giá bình quân loại gạo chất lượng trung bình ở Indonesia đã tăng lên mức cao kỷ lục 10,414 rupiah (khoảng 750 USD)/tấn trong tháng 10 do lo ngại sản lượng và dự trữ đều giảm. Cơ quan thống kê Indonesia dự đoán sản lượng lúa năm 2015 của nước này đạt 74,99 triệu tấn, giảm nhẹ so với 75,55 triệu tấn ước tính trước đó, đó là chưa tính đến tác động của El Nino. Sản lượng lúa Indonesia năm 2016 dự báo sẽ thấp hơn năm 2015, bởi việc gieo trồng bị muộn hơn do hạn hán.

 

Giá gạo tăng cộng với sản xuất lúa gạo khó khăn do khô hạn gây ra bởi El Nino đã khiến cho kho dự trữ gạo của Indonesia sụt giảm mạnh xuống 1,5 triệu tấn tính đến cuối tháng 11, so với mức quy định 2 triệu tấn.

 

Cuối tháng 10 vừa qua, Tổng thống Joko Widodo đã đồng ý nhập khẩu gạo Việt Nam và Thái Lan để đảm bảo lượng gạo cung cấp cho thị trường trong nước và duy trì giá gạo ổn định. Đợt đầu Indonesia nhập khẩu 1,5 triệu tấn của Việt Nam và Thái Lan, chia làm nhiều gói, giao hàng trước tháng 3/2016, trong đó khoảng 1 triệu tấn của của Việt Nam và 500.000 tấn của Thái Lan, để bổ sung lượng gạo lưu kho và ổn định giá gạo trong bối cảnh El Nino gây hạn hán ở một số nơi. Ngoài ra, Indonesia cũng tìm mua gạo Campuchia, Myanmar và Pakistan.

 

2.3 Trung Quốc

 

Nhập khẩu gạo của Trung Quốc trong 11 tháng đầu năm 2015 đạt 2,243 triệu tấn, tăng 32% so với 2,013 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái, theo số liệu của Tổng cục Hải quan nước này. Trung Quốc đang tăng cường kiểm soát việc nhập khẩu gạo qua biên giới, đồng thời tăng cường nhập khẩu theo đường chính thức từ nhiều nguồn cung cấp như Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia, Myanmar...

 

Trong 11 tháng đầu năm 2015, xuất khẩu gạo của Trung Quốc đạt 257.900 tấn, giảm khoảng 25% so với cùng kỳ năm ngoái.

 

Quốc gia này đã nhập khẩu khoảng 2,563 triệu tấn gạo và xuất khẩu 419.069 tấn trong năm 2014.

 

Cơ quan thường trú Bộ Nông nghiệp Mỹ tại Trung Quốc dự đoán nhập khẩu gạo của nước này năm 2015-2016 (tháng 7 - tháng 6) đạt 4,7 triệu tấn, tăng 9% so với 4,315 triệu tấn năm 2014-2015 do giá gạo nội địa tăng. Sản lượng lúa của Trung Quốc năm 2015-2016 dự báo giảm xuống 206 triệu tấn từ 206,429 triệu tấn năm 2014-2015. Tiêu thụ gạo của Trung Quốc năm 2015-2016 sẽ ở mức 150 triệu tấn.

 

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) ước tính, sản lượng gạo của Trung Quốc niên vụ 2015-2016 (tháng 7 - tháng 6) đạt 145,5 triệu tấn, nhập khẩu gạo năm 2015 đạt 4,7 triệu tấn và xuất khẩu 400.000 tấn.

 

III. CẢNH BÁO, DỰ BÁO

 

Giá gạo xuất khẩu trên thị trường châu Á sẽ có xu hướng giảm nhẹ trong khoảng 1-2 tháng đầu năm 2015 trong bối cảnh giao dịch trầm lắng đầu năm bởi hầu hết những khách hàng có nhu cầu đã tiến hành mua trước kỳ nghỉ cuối năm. Dự báo từ khoảng cuối tháng 2/2016, thị trường sẽ sôi động dần lên bởi khi đó nhiều nhà nhập khẩu của hai thị trường truyền thống là Philippines và Trung Quốc sẽ cấp hạn ngạch nhập khẩu mới, và một số nước, trong đó cóp Việt Nam thu hoạch vụ lúa mới.

 

Tại Việt Nam, sẽ có ít nhu cầu mua mới trong thời gian ngắn sắp tới, bởi giá hiện đang cao và nguồn cung không còn nhiều.

 

Sang năm 2016, xuất khẩu gạo dự báo sẽ bớt khó khăn hơn năm 2015 bởi sản lượng dự báo giảm do thời tiết, kéo theo dự trữ sụt giảm.

 

Nhóm các quốc gia nhập khẩu gạo lớn gồm Philippines, Indonesia và Trung Đông ngày càng tỏ ra quan ngại đối với điều kiện thời tiết khắc nghiệt sẽ ảnh hướng lớn đến sản lượng gạo.

 

Trong khi đó, với Thái Lan, điều kiện thời tiết khô hạn sẽ ảnh hưởng đến sản lượng gạo ngoài vụ mùa đạt mức 4 triệu tấn thóc. Nếu diễn biến thời tiết khắc nghiệt tiếp tục diễn biến xuyên suốt năm 2016 thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sản lượng gạo vào năm 2016.

 

Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) trong báo cáo tháng 12 dự báo thương mại gạo toàn cầu năm 2016 sẽ đạt 45,3 triệu tấn, tăng 1,4% so với 44,7 triệu tấn năm 2015 do sản lượng giảm, chủ yếu ở châu Á, và nhiều chính phủ nỗ lực dự trữ gạo bởi lo lắng về ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết El Nino.

 

 “Việc giá giảm và thời tiết bất lợi có thể làm hạn chế việc gieo cấy”, và phần lớn sự sụt giảm sẽ rơi vào châu Á, nhất là ở Thái Lan do thời tiết khô hạn.

 

Dự báo sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2015-2016 đạt 491,5 triệu tấn, giảm nhẹ so với 494,2 triệu tấn năm 2014-2015. Nguyên nhân chủ yếu do thời tiết bất lợi và giá không hấp dẫn khiến diện tích gieo cấy chỉ đạt 161,1 triệu ha, trong khi năng suất bình quân dự đoán đạt 4,6 tấn/ha.

 

Châu Á sẽ sản xuất 669,7 triệu tấn trong năm 2015, thấp hơn 0,5% so với năm 2014, bởi nơi thì khô hạn, nơi thì lũ lụt. Mới đây, FAO cũng đưa ra một báo cáo theo đó rủi ro về an ninh lương thực ở các nước đang phát triển đang ngày càng gia tăng.

 

Việc nhiều chính phủ xây dựng các kho dự trữ lương thực dự báo sẽ làm tăng nhập khẩu vào châu Phi, Mỹ Latinh và Caribê, mặc dù đà tăng này có thể bị hạn chế bởi nội tệ của những nước thuộc khu vực này mất giá.

 

Các nước đang phát triển dự báo sẽ nhập khẩu tổng cộng 39,4 triệu tấn gạo trong năm 2016, tăng 1,3% so với năm 2015.

 

Tồn trữ lớn sẽ giúp Thái Lan và Pakistan tăng xuất khẩu gạo, và nhu cầu nhập khẩu tăng sẽ đến từ Philippines và Indonesia – góp phần làm tăng xuất khẩu gạo cho Việt Nam, còn xuất khẩu của Ấn Độ có thể giảm do nguồn cung khan hiếm.

 

Nhập khẩu gạo vào Trung Quốc, nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới, dự báo sẽ nhập khẩu 6,3 triệu tấn trong năm 2016, so với 6,6 triệu tấn năm 2015.

 

FAO dự đoán xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2016 tăng trong khi xuất khẩu gạo của Ấn Độ, Brazil và Mỹ lại giảm.

 

Ấn Độ có thể sẽ vẫn là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới trong năm 2016 với khối lượng dự báo giảm 9,6% so với năm 2015 xuống 10,6 triệu tấn, tiếp đến là Thái Lan với 10,4 triệu tấn và Việt Nam với 8,7 triệu tấn.

 

FAO ước tính sử dụng gạo toàn cầu niên vụ 2015-2016 đạt 498,2 triệu tấn, tăng 1,1% so với 492,7 triệu tấn năm 2014-2015 do lượng gạo sử dụng làm lương thực tăng 5,3 triệu tấn lên 401,5 triệu tấn. FAO cũng dự đoán tiêu thụ gạo theo đầu người năm 2015-2016 đạt 54,6 kg.

 

Lượng gạo lưu kho toàn cầu năm 2016 ước đạt 166,4 triệu tấn, giảm 3,3% so với 172,1 triệu tấn năm 2015. Nguyên nhân chính là do lượng gạo dự trữ của Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar, Nigeria và Mỹ giảm.

 

Tỷ lệ dự trữ/sử dụng giảm xuống 32,8%, thấp nhất 4 năm qua.

 

Uỷ ban Ngũ cốc Quốc tế (IGC) trong báo cáo tháng 12 dự báo sản lượng gạo toàn cầu 2015-2016 đạt 474 tấn, giảm 1% so với 478 triệu tấn năm 2014-2015 do sản lượng tại một số nước sản xuất chủ chốt giảm, kể cả Ấn Độ và Thái Lan.

 

IGC dự báo thương mại gạo toàn cầu 2015-2016 đạt 42 triệu tấn, không đổi so với năm trước cũng như ước tính đưa ra trong báo cáo GMR tháng 10. Tuy nhiên, thương mại gạo toàn cầu sẽ đạt kỷ lục trong năm 2016 do nhập khẩu của hầu hết các nước châu Á đều tăng, kể cả Indonesia và Philippines, khi các nước nỗ lực duy trì lượng gạo lưu kho đủ đáp ứng nhu cầu nội địa.

 

Tiêu thụ gạo toàn cầu năm 2015 dự báo tăng 1% lên 486 triệu tấn so với 483 triệu tấn năm 2014 và tăng nhẹ so với 485 triệu tấn dự báo trong báo cáo GMR tháng 10.

 

Tồn kho cuối vụ 2015-2016 ước đạt 94 triệu tấn, giảm 12% so với 107 triệu tấn năm 2014-2015 nhưng không đổi so với dự báo trong báo cáo tháng 10.

 

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) trong báo cáo tháng 12 dự báo thương mại gạo toàn cầu năm 2015 đạt 42,4 triệu tấn, giảm 900.000 tấn so với 43,3 triệu tấn năm 2014 và giảm 100.000 tấn so với 42,5 triệu tấn dự báo trong báo cáo tháng 11. Dự báo xuất khẩu gạo của Uruguay, Australia và Peru giảm, trong khi xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng.

 

USDA hạ dự báo nhập khẩu gạo của Nigeria, Brazil và Madagascar.

 

Cũng theo dự báo của USDA, thương mại gạo toàn cầu năm 2016 đạt 41,3 triệu tấn, giảm 600.000 tấn so với 41,9 triệu tấn dự báo hồi tháng 11 và giảm 1,1 triệu tấn so với 42,4 triệu tấn năm 2015.

 

V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

 

Để ngành lúa gạo Việt phát triển bền vững và tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, cần có chiến lược lâu dài và đồng bộ cho sản xuất, tiêu thụ và và xuất khẩu lúa gạo, và thực hiện một cách nghiêm túc các chính sách đó.

 

Xây dựng cho bằng được thương hiệu gạo Việt, tích cực quảng bá cho hạt gạo Việt

 

* Tuyên truyền tới người dân để mỗi người Việt Nam, từ nông dân tới nhà kinh doanh, đều có ý thức xây dựng thương hiệu và giữ gìn uy tín cho hạt gạo Việt.

* Tăng cường thông tin về các thị trường đang hướng tới, biết được sản xuất của họ tăng giảm bao nhiêu, các đối thủ cạnh tranh đang có chiến lược gì…

* Giảm giá thành sản xuất từ khâu hạt giống, phân bón, thất thoát, chế biến, thu mua trung gian… cùng biện pháp liên kết giữa 3 nhà (sản xuất, chế biến và xuất khẩu) để tăng sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Chủ động được nguồn giống, sản xuất theo quy trình khép kín từ khâu giống đến chế biến.

* Đảm bảo chất lượng hạt gạo để tạo uy tín với khách hàng: vệ sinh an toàn thực phẩm, không có dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng có hại cho sức khỏe, làm sao để hạt gạo dù bảo quản lâu vẫn giữ được hương thơm và độ dẻo, không có sạn thóc;

* Lựa chọn một số giống/loại phù hợp với nhu cầu/sở thích của khách hàng để kiên trì phát triển một cách bài bản. Hiện gạo xuất khẩu của Việt Nam không có được thương hiệu chủ yếu vẫn bởi chất lượng không đồng đều, không có sự nổi bật;

* Mẫu mã bao bì cũng được thiết kế riêng với chất liệu tự nhiên có thể tự tiêu hủy rất thân thiện với môi trường;

* Hỗ trợ cho những doanh nghiệp lớn từng bước xây dựng thương hiệu gạo;

* Để việc thu mua tạm trữ lúa gạo mang lại hiệu quả thực sự, các ngành chức năng và các doanh nghiệp cần có những giải pháp đồng bộ và cụ thể để phối hợp đẩy nhanh tiến độ thu mua, vào đúng thời điểm cần mua, giảm dần tiến tới xóa bỏ các khâu trung gian để lợi ích đến tận tay người nông dân;

* Chú trọng khai thác triệt để thị trường nội địa, đặc biệt là các loại gạo phẩm cấp cao và các sản phẩm làm từ gạo. Điều này không chỉ là nhiệm vụ của nông dân và doanh nghiệp mà cần có cả sự hỗ trợ của Nhà nước.

* Hoàn thiện chính sách tín dụng và đầu tư cho sản xuất lúa gạo; chú trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất, chế biến và lưu thông lúa gạo, như sản xuất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công cụ cơ giới nông nghiệp, các cơ sở chế biến, bảo quản, vận chuyển,...

* Để đảm bảo người trồng lúa có lãi, cũng như đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia, cần có sự thay đổi phương thức hỗ trợ người nông dân mang tính dài hơi, bền vững. Trước hết là quy hoạch sản xuất để không xảy ra tình trạng loại gạo cần thì chưa có, loại đang có lại không bán được. Tiếp nữa là sự can thiệp trong giai đoạn thu hoạch lúa làm sao để mang lại hiệu quả cao nhất, chẳng hạn như có chính sách hỗ trợ tài chính cho người nông dân hoặc hợp tác xã xây dựng kho bãi, sân phơi…

* Với thị trường Trung Quốc, xét thực tế người dân Trung Quốc ngày càng có nhu cầu tăng đối với gạo chất lượng cao, ví dụ như gạo Campuchia hay gạo Nhật Bản, Việt Nam cần có quy hoạch từ khâu sản xuất tới xuất khẩu cho riêng thị trường có tiềm năng rất lớn và nhiều lợi thế cho Việt Nam này. Rà soát nhu cầu của Trung Quốc thời gian qua để xây dựng cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu sang Trung Quốc, đảm bảo đủ cung các loại chất lượng vừa và thấp, nâng tỷ lệ gạo chất lượng cao.

 

Việc làm thế nào để duy trì và phát triển thị trường, đồng thời đảm bảo về khâu thanh toán là một bài toán khó. Tuy nhiên, hiện tại và trong tương lai đây vẫn là thị trường quan trọng của gạo Việt Nam nên cần chú trọng tìm hiểu về thị trường này, từ khâu nhu cầu tiêu thụ, thời điểm nhập khẩu, những lý do khiến họ mua nhiều hoặc mua ít, phương thức thanh toán… để từ đó đưa ra những biện pháp với riêng thị trường này.

 

Qua việc người dân Trung Quốc rất lo ngại về chất lượng các sản phẩm nội địa, như sữa, và kể cả với gạo họ cũng đang chuộng gạo Nhật dù đắt đỏ cho thấy, đây có thể là một thị trường tiềm năng đối với gạo chất lượng cao, và điều này cũng là một những lý do để phải xây dựng hình ảnh hạt gạo Việt thật tốt trên toàn thế giới.

 

Nguồn dddn.com.vn dẫn lời GS Võ Tòng Xuân cho biết, để làm ăn lâu dài với Trung Quốc, VFA cần phải ngồi họp lại, bàn những biện pháp cụ thể như: chỉ định từng doanh nghiệp nếu kinh doanh với Trung Quốc thì nên làm cái gì. Cụ thể như: nếu đàm phán với Trung Quốc thì nên đàm phán thế nào, các điều khoản cần phải rõ ràng minh bạch tránh bất lợi cho phía doanh nghiêp xuất khẩu, đặc biệt là khi đàm phán thương thảo doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam không được làm qua thương lái mà cần phải trực tiếp với nhà nhập khẩu. Nếu trong trường hợp, đàm phán với Trung Quốc thất bại, Hiệp hội phải có giải pháp khác để giải quyết lượng hàng đang tồn hoặc là tạm trữ tiếp và Nhà nước hỗ trợ lãi suất để DN vay và giữ lại đó hoặc là chuyển sang thị trường khác mang tính liên kết trong Hiệp hội với nhau. Ví dụ như, doanh nghiệp A lỡ ký với Trung Quốc rồi nhưng giá cao như vậy nên không bán vì Trung Quốc phá nhiễu thị trường trong nước thì doanh nghiệp B, C, D... những doanh nghiệp còn lại sẽ cứu doanh nghiệp A. Hơn nữa, VFA cũng cần phối hợp với các đơn vị khác trong lĩnh vực phân phân phối mặt hàng nông nghiệp để tăng cường đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tổ chức nhiều hơn các hội chợ biên giới để doanh nghiệp tìm đúng đầu mối của mình. Các doanh nghiệp làm ăn với Trung Quốc cần được bảo lãnh của ngân hàng. Ngân hàng hai bên cần liên kết và có nhiệm vụ thẩm định doanh nghiệp có đủ tin cậy hay không…

 

Tác động từ TPP

 

Khi TPP có hiệu lực, 8/12 nước cam kết xóa thuế nhập khẩu gạo ngay lập tức, trong khi mức thuế này đang ở mức 40%. Riêng Chile, Mexico sẽ xóa dần thuế quan theo lộ trình 8-10 năm, thay vì mức thuế 34% như hiện nay. Nếu tận dụng được thì đây sẽ là cơ hội tốt cho ngành lúa gạo Việt Nam.

 

So với các quốc gia trong cộng đồng TPP, Việt Nam có ưu thế nổi trội trong sản xuất lúa gạo. Trong 10 năm qua, tổng sản lượng gạo trung bình của các nước trong khối TPP là 45,3 triệu tấn/năm, Việt Nam đã chiếm 26,7 triệu tấn (tương đương gần 59%).

 

Năm 2014, tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào các nước trong TPP chỉ đạt 760.000 tấn. Trong khi đó, theo số liệu thống kê của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), 11 quốc gia trong khối TPP đã nhập khẩu 4,69 triệu tấn gạo. Điều này có nghĩa, thị trường tiềm năng trong nội khối của gạo Việt Nam vẫn còn tới gần 4 triệu tấn, lớn hơn 5 lần khối lượng thực tế đã đạt được.

 

Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, cơ hội để gia tăng xuất khẩu gạo vào các thị trường TPP này hiện cũng không nhiều, bởi trên thực tế, ngành lúa gạo Việt Nam rất khó để tiếp cận được với các thị trường của TPP, chủ yếu do gạo của Việt Nam không có thương hiệu, không thuần loại, không kiểm soát được dư lượng hóa chất và không truy xuất được nguồn gốc.

 

Từ năm 2008 đến nay, có khoảng 20 doanh nghiệp Việt Nam đưa gạo được vào thị trường Hoa Kỳ, với khoảng 76.000 tấn/năm. Với Nhật Bản, trong Hiệp định TPP, Nhật Bản cũng không cam kết xóa bỏ thuế với mặt hàng gạo của Việt Nam.

 

Nhu cầu sản phẩm sạch của thị trường trong và ngoài nước là vô cùng lớn, còn doanh nghiệp có năng lực nhưng chưa được Nhà nước hỗ trợ về chính sách nên khó có thể mở rộng quy mô, phát triển lớn hơn.

 

Ngành lúa gạo Việt Nam đến nay vẫn chưa có thương hiệu do sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, mỗi người nông dân làm một giống lúa khác nhau trong khi bộ giống quốc gia có quá nhiều loại. Các thương lái lại có thói quen khi mua gạo của nhiều người và thường trộn lẫn với nhau nên một bao gạo thường chứa nhiều loại gạo khác nhau.

 

Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa có chính sách để xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam. Để tìm lối ra cho mình, một số doanh nghiệp nhỏ lần lượt chuyển hướng vào sản xuất các loại gạo hữu cơ, gạo “chức năng,” gạo “thảo dược”...

 

Tuy nhiên, các doanh nghiệp này lại không được khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển.

 

Như vậy, trong bối cảnh hiện nay, điều kiện tiên quyết để tận dụng tốt nhất cơ hội mà TPP có thể mang lại, trước hết phải dựng được thương hiệu gạo “Made in Vietnam.” Để làm được điều này, trước hết phải tổ chức lại sản xuất ngành lúa gạo; trong đó, trọng tâm là thúc đẩy quá trình xây dựng mô hình liên kết cánh đồng lớn - vùng nguyên liệu. Đồng thời, cụ thể hóa việc củng cố và phát triển 3 hệ thống giống, canh tác và hỗ trợ dịch vụ hậu cần, logistic làm nền tảng vững chắc cho chương trình chất lượng và thương hiệu gạo cho vùng trọng điểm lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long.

 

Theo Nhanhieuviet.

Trở lại      In      Số lần xem: 14259

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Xuất khẩu cao su tăng về lượng nhưng giảm về kim ngạch
  • Tổng hợp tin thị trường gạo ngày 13/4
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 13/4/2016
  • Báo cáo ngành hàng rau quả tháng 4/2016
  • Báo cáo mặt hàng chè tháng 4/2016
  • Giá gạo xuất khẩu tháng 4-2016
  • Báo cáo mặt hàng thịt tháng 4/2016
  • Báo cáo mặt hàng phân bón tháng 4/2016
  • Báo cáo ngành hàng hạt điều tháng 4/2016
  • Thị trường đường thế giới quý I/2016 và dự báo
  • Quý I/2016, xuất khẩu hàng rau quả tăng trưởng dương ở các thị trường
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 12/5/2016
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 30/5/2016
  • Thị trường thức ăn chăn nuôi quý I/2016 và dự báo
  • Báo cáo ngành hàng lúa gạo tháng 5/2016
  • Vào vụ mía mới, giá mía nguyên liệu tăng
  • Thị trường cà phê, ca cao ngày 25/5/2016
  • Xuất khẩu gạo: Campuchia tiến lên, Việt Nam tụt xuống
  • Thị trường NL TĂCN thế giới ngày 6/7: Giá ngô giảm do dự báo thời tiết Mỹ
  • Việt Nam sẽ trở thành một trong những nước nhập khẩu đậu tương nhiều nhất thế giới
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD