Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  22
 Số lượt truy cập :  33377396
Mức độ rủi ro về kinh tế và lợi ích của xử lý hạt đậu nành bằng thuốc trừ nấm và thuốc trừ sâu hại, làm giảm mật độ gieo hạt
Thứ năm, 12-03-2015 | 05:01:09

Nguồn: Adam P. Gaspar , Paul D. Mitchell and Shawn P. Conley

CROP SCIENCE February 3, 2015, Vol. 55 No. 2, p. 924-933

Crop Ecology, Management and Quality

 Xem chi tiết toàn văn báo cáo khoa hc https://www.crops.org/publications/cs/abstracts/55/2/924

 

TÓM TẮT

 

Thời vụ gieo trồng đậu nành [Glycine max (L.) Merr.] sớm hơn bình thường sẽ làm gia tăng chi phí hạt giống, và giá đầu vào cao hơn, dẫn đến việc tăng cường việc sử dụng thuốc xử lý hạt bằng thuốc diệt nấm và thuốc diệt sâu. Những nghiên cứu gần đây cho thấy nhà nông nên xem xét khuyến cáo gieo sạ mật độ thưa để gia tăng lợi nhuận tính theo suất đầu tư. Nhà nông muốn biết giá trị tăng thêm nếu như họ kết hợp hai kỹ thuật xử lý hạt và gieo sạ thưa. Do vậy, người ta thực hiệm 3 nghiệm thức (đối chứng không xử lý, ApronMaxx, và CruiserMaxx) với sáu mật độ gieo sạ (98.800, 148.200, 197.600, 247.000, 296.400, và 345.800 hạt đậu nành trên một ha). Kết quả được đánh giá để xác định năng suất hạt, lợi nhuận, và rủi ro kinh tế của các nghiệm thức phối hợp khác nhau, bao gồm mật độ sạ tối hảo về mặt kinh tế EOSR (economically optimal seeding rate) đối với từng nghiệm thức. Những thử nghiệm được thực hiện tại chín địa điểm ở trong Wisconsin vụ đậu nành 2012 và 2013, tổng cộng là 18 điểm - năm. Với một dãy rộng các nghiệm thức mật độ sạ, ApronMaxx cho thấy không khác biệt về năng suất hoặc tiền lời, chỉ có một chút khác biệt về “risk benefits” (<0,54 break-even probability) tại thời điểm giá hạt đậu nành nằm giữa mức 0,33 và 0,55 đô la / kg. CruiserMaxx làm tăng năng suất 12% ở mật độ gieo sạ 98.800 hạt / ha và tăng  4% ở 345.800 hạt / ha. Thêm vào đó, CruiserMaxx có thể làm giảm khá ổn định rủi ro, làm tăng lợi nhuận ở cả hai mật độ sạ (197.000–345.800 hạt. ha−1) trên nhiều địa điểm khác nhau và tại các thời điểm giá bán buôn khác nhau. Rủi ro thấp nhất và lợi nhuận bình quân cao nhất tăng lên luôn xảy ra xét theo EOSR. Mật độ sạ tối hảo về mặt kinh tế giảm tại thời điểm giá bán hạt đậu nành giảm. Tại thời điểm chi phí hạt hiện nay, chỉ số EOSR đối với nghiệm thức xử lý hạt bằng CruiserMaxx biến thiên từ 232.000 đến 261.000 hạt giống ha−1 tùy theo giá bán buôn hạt đậu nành. Những số liệu này cho thấy nhà sản xuất nên xem xét giá bán buôn hạt giống kỳ vọng của họ và lựa chọn cách thức xử lý hạt ở ngưỡng mà mật độ gieo sạ làm giảm được độ rủi ro kinh tế, cũng như gia tăng được lợi nhuận.

 

GS. Bùi Chí Bửu lược dịch.

 

Hình 1. Năng suất (kg / ha) được mô phỏng theo hàm số mũ [negative exponential model] (Eq. [1]) đối với nghiệm thức đối chứng (UTC) (ô vuông), ApronMaxx (ô tròn), và CruiserMaxx (ô tam giác) thông qua các mật độ gieo sạ khác nhau và địa điểm khác nhau. Dạng đường biểu diễn đại diện cho giá trị trung bình.

Trở lại      In      Số lần xem: 1680

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD