Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  11
 Số lượt truy cập :  33412234
Tuần tin khoa hoc 355 (25/11-1/12/2013)
Thứ hai, 25-11-2013 | 18:24:01

Hợp tác nghiên cứu dữ liệu gen cây đu đủ và xét nghiệm PCR trong phân tích GMO

 

Các nghiên cứu trước đây đều cho rằng gen chymopapain (CHY) trong cây đu đủ (Carica papaya L.) là một gen tham khảo nội sinh trong việc tìm kiếm đu đủ GM (endogenous reference gene). Trong nghiên cứu của Jiaojun Wei và ctv. thuộc Đại Học Shanghai Jiao Tong, họ đã minh chứng rõ ràng hơn nội dung sử dụng gen này (CHY) và kỹ thuật PCR định tính cũng như định lượng thông qua cái gọi là “interlaboratory collaborative ring trial” (hợp tác giữa các phòng thí nghiệm). Có hai mươi phòng thí nghiệm tìm kiếm GMOs hợp tác với nhau trong chuỗi xét nghiệm như vậy (ring trial). Phân tích thống kê những kết quả mang lại cho thấy mức độ chuyên biệt của loài, sự dị hợp thấp (low heterogeneity), và số bảo sao chép đơn của gen CHY trong nhiều giống đu đủ khác nhau. Hạn chế của việc phát hiện ấy là xét nghiệm PCR về lượng CHY chỉ đạt 0,1%, với 25 copies thể đơn bội trong genome cây đu đủ có thể chấp nhận được hiệu quả PCR và tính chất tuyến tính của PCR. Những khác biệt giữa gái trị thực và giá trị xét nghiệm của đu đủ lấy trong 10 mẫu không thấy được thay đổi từ 0,84 đến 6,58%. Theo kết quả như vậy, gen CHY có thể được sử dụng như một gen tham khảo (endogenous reference gene) trong xác định và định lượng giống đu đủ GM.

Xem: http://pubs.acs.org/doi/abs/10.1021/jf403338a.

 

Sự im lặng gen Carboxylesterase đối với tính kháng thuốc sâu của rầy mềm Weaken

 

Các nhà khoa học của ĐH Nông Nghiệp Trung Quốc: Lanjie Xu và ctv. đã sử dụng công nghệ RNA can thiệp trong nghiên cứu rầy mềm (aphids: Sitobion avenae) thông qua sự kiện làm im lặng gen trong rầy mềm này và làm giảm bớt thời gian quản lý côn trùng trong các thí nghiệm. Họ dòng hóa gen carboxylesterase (CbE E4) trong con rầy mềm làm gia tăng sinh tổng hợp một protein được biết là kháng với loài như vậy; protein ấy phát triển với một phổ sử dụng rộng các loại thuốc sâu. Họ thiết kế RNAi vector và các dóng lúa mì chuyển gen (dsCbE1-5 và dsCbE2-2) thể hiện CbE E4 dsRNA. Các con aphids này được nuôi bằng lúa mì chuyển gen, mà lúa mì ấy sản sinh ra CbE E4 dsRNA. Sự thể hiện gen CbE E4 trong các aphids ấy giảm đi 30–60%. Số con aphids được nuôi trên cây lúa mì chuyển gen thấp hơn số rầy mềm được nuôi trên cây lúa mì bình thường. Dung môi có CbE E4 enzyme của aphids được nuôi trên cây lúa mì chuyển gen chỉ bị thủy phân 20–30% trong dung dịch phoxim (thời gian 40 phút). Trong khi đó, dung môi có chứa enzyme CbE E4 dùng để nuôi rầy trên cây đối chứng bị thủy phân đến 60% trong dung dịch phoxim (thời gian 40 phút). Sự im lặng gen CbE E4 cho kết quả thành công khi áp dụng phương pháp RNA can thiệp trong cây lúa mì. Tác giả kết luận rằng phương pháp “plant-mediated RNAi” có thể rất hữu dụng trong quản lý dịch hại cây trồng với yêu cầu bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp. Xem tạp chí Transgenic Research: http://link.springer.com/article/10.1007/s11248-013-9765-9.

 

Dự đoán bằng kỹ thuật “Gene Editing” và giống khỉ chuyển gen trong nghiên cứu các bệnh trên người.

 

File:Neuron with mHtt inclusion.jpgNhà di truyền học của ĐH Emory, ông Anthony Chan đã phát triển thành công năm con khỉ biến đổi gen đầu tiên với những đột biến gen của người, đặc biệt trong nghiên cứu bệnh Huntington. Năm 2008, ba trong số những con khỉ này đã phát triển khá nhanh triệu chứng bệnh một cách trầm trọng, nhanh hơn rất nhiều so với dự đoán. Các viruses được sử dụng cho thâm nhập vào một gen đặc biệt với nhiều bản sao chép một cách ngẫu nhiên, làm xấu hơn rất nhiều so với các triệu chứng được mô tả trước đây từ đó cho thấy những hạn chế của phương pháp này trong mô hình hóa bệnh học trên động vật mô hình. Chan và ctv. Đang xét xém khả năng của kỹ thuật dự đoán nhờ “genome-editing techniques”. Nó là giải pháp dựa trên việc sử dụng những enzymes và phân tử RNA thay vì sử dụng viruses. Hơn nữa, nhiều nhà khoa học tin rằng khỉ chuyển gen sẽ bắt chước được những điều kiện di truyền của người tốt hơn chuột — điều này có thể giúp chúng ta phát triển thành công các loại thuốc chữa bệnh tốt hơn.

Xem http://www.scientificamerican.com/article.cfm?id=precision-gene-editing-paves-way-for-transgenic-monkeys.

 

 Hợp tác nghiên cứu chọn tạo giống gà chống chịu nóng và kháng bệnh

 

Các nhà khoa học thuộc ĐH California Davis, Đại Học Ghana, Đại Học Sokoine, Nông Nghiệp Tanzania và Đại Học Delaware cùng hợp tác nghiên cứu theo một chương trình mới tập trung nội dung chọn tạo giống gà vừa kháng bệnh vừa cống chịu nóng ở Châu Phi.  Chương trình nghiên cứu này có kinh phí là 6 triệu USD nhằm mục đích làm giảm đói nghèo và đạt được an ninh lương thực. Tổ chức của Hoa Kỳ về phát triển quốc tế (USID) tài trợ cho chương trình này theo sáng kiến “Feed the Future”. Xem

http://amestrib.com/sections/news/ames-and-story-county/isu-help-breed-disease-heat-resistant-chicken.html

 

Phương pháp mới nhằm xác định ảnh hưởng môi trường trong khi phóng thích côn trùng GE

 

Các nhà khoa học thuộc ĐH Minnesota (UM) đã phát triển một phương pháp mới để xác định các ảnh hưởng của môi trường khi người ta phóng tích những côn trùng biến đổi gen ra sàn xuất (côn trùng GE). Côn trùng GE vô cùng triển vọng trong thay đổi quản lý dịch hại và chống lại bệnh gây cho người có nguồn gốc từ côn trùng trên thế giới. Trước khi phóng thích những côn trùng GE này, các nhà khoa học, chuyên viên chính phủ và công nghiệp phải khảo sát cẩn thận những ảnh hưởng có thể xảy ra cho môi trường mà côn trùng GE gây ra. Người ta gọi đó bằng thuật ngữ ERA (ecological risk assessments). Phương pháp mới như vậy cung cấp những hướng dẫn được cải tiến trong khi đánh giá rủi ro trong môi trường. Các  nhà nghiên cứu tập trung vào  những ảnh hưởng có thể có trong môi trường, có thể bất lợi, có thể hữu ích. Họ áp dụng một phương pháp riêng của họ đối với muỗi Anopheles gambiae – vec tơ truyền bệnh sốt rét. Muỗi này được thao tác bằng công nghệ di truyền nhằm tạo áp lực với quần thể muỗi nguyên thủy. Họ cũng sẽ khảo sát cẩn thận các ảnh hưởng có thể xảy ra cho môi trường trong pha chuyển tiếp với thời gian ngắn và pha thực hiện các giống muỗi GE với điều kiện dài hạn. Trong khi tất cả biện pháp đánh giá rủi ro đều xem xét đến kết quả, nhóm nghiên cứu này lại xem xét toàn bộ diễn biến của các ảnh hưởng có thể xảy ra. Xem tạp chí Ecology and Evolution http://www1.umn.edu/news/news-releases/2013/UR_CONTENT_463290.html.

Trở lại      In      Số lần xem: 1328

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD