Ảnh hưởng của sử dụng rơm rạ và chế độ tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thứ sáu, 26-06-2015 | 08:30:23
|
Hoàng Thị Thái Hòa, Nguyễn Đức Thành, Đỗ Đình Thục, Hồ Công Hưng
Hoạt động nông nghiệp thải vào không khí một lượng lớn các khí như CO2, CH4 và N2O (Cole và cs, 1997). CO2 được giải phóng phần lớn từ vi sinh vật hoặc do đốt phụ phẩm cây trồng và từ hợp chất hữu cơ trong đất (Janzen, 2004). CH4 được sản sinh ra từ các vật liệu hữu cơ bị phân hủy trong điều kiện yếm khí, từ bảo quản phân chuồng hoặc từ trồng lúa trong điều kiện ngập nước (Mosier và cs, 1998). N2O được tạo thành từ quá trình từ quá trình chuyển hóa sinh học của đạm ở trong đất và trong phân chuồng, thường tăng lên khi lượng đạm dễ tiêu vượt quá so với nhu cầu của cây, đặc biệt trong điều kiện ẩm (Oenema và cs, 2005). Tổng lượng phụ phẩm thải ra trong sản xuất lúa ở Việt Nam ước tính khoảng 101.000 tấn/năm, trong đó rơm rạ chiếm 84% và vỏ trấu chiếm 16%. Trước đây sau khi thu hoạch, rơm rạ thường được các hộ nông dân mang về nhà đánh đống để đun nấu, làm thức ăn cho gia súc, lợp nhà và làm phân bón. Tuy nhiên trong những năm gần đây do những biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội, một tỷ lệ đáng kể hộ nông dân đã không còn sử dụng rơm rạ vào những mục đích như trước đây mà thay vào đó họ đốt rơm rạ ngay ở ngoài đồng ruợng. Sản lượng rơm rạ đốt ngoài đồng ruộng ngày càng tăng nhanh đã tạo ra lượng khí thải khổng lồ gây ô nhiễm môi trường, là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng biến đổi khí hậu và nhiều hậu quả khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng khí CO2 phát thải vào môi trường do đốt rơm rạ ngoài đồng ruộng lớn nhất, từ 1,2-4,7 triệu tấn/năm, nếu tỷ lệ rơm rạ đốt giao động trong khoảng 20-80%. Lượng phát thải các loại khí thải khác như CH4 sẽ là 1,0-3,9 ngàn tấn/năm, CO là 28,3-113,2 ngàn tấn/năm (Nguyễn Mậu Dũng, 2012). Bên cạnh đó, việc sử dụng nước tưới cho lúa ở mức chưa hợp lý cũng là nguyên nhân làm tăng khả năng sản sinh khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính. Việc sử dụng biện pháp quản lí nước hợp lí, tiết kiệm kắc phục được tình trạng thiếu nước hiện nay vừa đảm bảo được năng suất và hạn chế được sự phát sinh các loại khí gây hiệu ứng nhà kính đang là vấn đề cần được quan tâm. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài với mục đích xác định được ảnh hưởng của việc sử dụng rơm rạ và chế độ tưới nước đến năng suất lúa và phát thỉa khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Sử dụng rơm rạ và chế độ tưới nước cho lúa có ảnh hưởng đến sinh khối tưới và khô, năng suất và phát thải gây hiệu ứng nhà kính của cây lúa. Bón tro rơm rạ và chế độ tưới khô xen kẽ (-10cm) thu được sinh khối tươi và khô lớn nhất vào thời kỳ thu hoạch (61,93 g/cây và 22,82 g/cây, theo thứ tự).
Năng suất lúa ở các công thức vùi rơm rạ cao hơn so với bón tro rơm rạ trong cùng một chế độ tưới, nhưng không sai khác có ý nghĩa. Trong biện pháp vùi rơm rạ thì công thức tưới khô xen kẽ (-10cm) có năng suất thực thu cao nhất là 6,61 tấn/ha, cao hơn 6% so với công thức bón tro rơm rạ ở công thức tưới khô ướt xen kẽ (-10 cm).
Bón tro rơm rạ giảm phát thải khí CH4 và N2O so với vùi rơm rạ trong cùng một chế độ tưới, tuy nhiên có lượng N2O và các khí khác phát thải khí đốt rơm rạ trên đồng ruộng. Phương pháp tưới ngập – khô xen kẽ làm giảm lượng khí CH4 sinh ra nhưng lại làm tăng sự phát thải khí N2O ở các giai đoạn nghiên cứu.
Do đó áp dụng biện pháp tưới khô ướt xen kẽ (-10 cm) và vùi rơm rạ trong sản xuất lúa tốt hơn so với biện pháp tưới ngập liên tục và vùi tro rơm rạ.
Theo TC Khoa học Đất. |
Trở lại In Số lần xem: 1158 |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|