Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  18
 Số lượt truy cập :  33428117
Bò ăn cỏ tươi và cỏ 3 lá ủ tươi cho sữa omega
Chủ nhật, 24-11-2013 | 06:08:26

Chất béo là thành phần quan trọng có ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng, kết cấu, vị, thời hạn sử dụng và giá thành của sữa. Tuy nhiên, các sản phẩm sữa là nguồn axit béo bão hoá đáng kể trong chế độ ăn của phương Tây. Vậy nên cho bò ăn gì để sữa của chúng chứa nhiều axit béo không bão hoà hơn?

 

Rất hiếm có dữ liệu về những ảnh hưởng của loại cỏ thường được sử dụng cho bò sữa ăn đối với quá trình chuyển hoá lipit ở các động vật nhai lại. Trong luận án tiến sĩ của mình, Anni Halmemies-Beauchet-Filleau đến từ Trường Đại học Helsinki đã nghiên cứu vai trò của các loại cỏ và phương pháp bảo quản cỏ đối với quá trình chuyển hoá lipit ở các động vật nhai lại và thành phần axit béo trong sữa.

Mục tiêu thực tế đó là xây dựng chiến lược cho ăn để làm giảm axit béo bão hoà và làm tăng axit béo không bão hoà trong thành phần chất béo của sữa, đặc biệt là axit oleic (Omega-9) và axit alpha-linolenic (Omega-3).

Khoảng ½ chất béo từ sữa được tạo ra ở các tuyến vú của bò, nửa còn lại đến từ những chất béo có trong cỏ. Hầu hết các axit béo không bão hoà trong cỏ thông qua quá trình hydro hoá sinh học để trở nên bão hoà trong dạ cỏ. Ngoài ra, do quá trình lên men thức ăn, các tiền chất béo được hình thành trong dạ cỏ, sau đó phát triển thành axit béo bão hoà ở các tuyến vú.

“Việc cho ăn có thể được sử dụng để tác động đến quá trình chuyển hoá lipit của dạ cỏ và các tuyến vú, và bằng cách ấy tác động đến thành phần chất béo của sữa”, Halmemies-Beauchet-Filleau giải thích.

Sự tác động của phương pháp bảo quản cỏ đã được nghiên cứu trong 2 cuộc thử nghiệm, bằng cách sử dụng cỏ tươi, cỏ khô hoặc cỏ ủ tươi có thêm hoặc không thêm axit. Tác động có lợi nhất đối với quá trình chuyển hoá lipit được tạo ra từ cỏ tươi. Những con bò ăn cỏ tươi sử dụng nhiều axit béo từ mô mỡ hơn để tạo chất béo trong sữa so với những con bò khác.

“So với cỏ khô, cỏ tươi làm giảm axit palmitic bão hoà và làm tăng axit oleic không bão hoà trong chất béo của sữa”, Halmemies-Beauchet-Filleau cho biết.

Những khác biệt về thành phần chất béo trong sữa giữa cỏ khô và cỏ ủ tươi không lớn.  

Thành phần axit béo trong sữa cũng được nghiên cứu bằng cách thay cỏ ủ tươi bằng cỏ 3 lá ủ tươi, rồi bổ sung 1 loại dầu thực vật thích hợp. Những thay đổi về quá trình chuyển hoá lipit ở động vật nhai lại dựa vào những khác biệt giữa loại cỏ xét về mặt tiêu hoá cùng với hệ thực vật vi khuẩn trong dạ cỏ.

Halmemies-Beauchet-Filleau lưu ý: “Việc thay thế cỏ ủ tươi bằng cỏ 3 lá đã làm giảm rõ rệt độ bão hoà của các axit béo trong dạ cỏ, và làm tăng mật độ axit alpha-linolenic trong chất béo của sữa”.

Bổ sung dầu thực vật vừa phải cũng làm thay đổi thêm nữa thành phần chất béo của sữa để trở nên có lợi hơn cho người tiêu dùng. Dầu thực vật này không làm giảm lượng cỏ tiêu thụ của bò và làm thay đổi phần nào thành phần axit béo chuyển hoá trong chất béo cũa sữa.

Bluesky - Dostdongnai, theo Phys.org

Trở lại      In      Số lần xem: 2012

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD