Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  19
 Số lượt truy cập :  33361635
Có thể giảm thiểu vấn đề khan hiếm nước vào năm 2050
Thứ bảy, 06-09-2014 | 06:13:31

Khan hiếm nước không phải là vấn đề của riêng các nước đang phát triển. Tại California, các nhà lập pháp đang đề xuất với cử tri một kế hoạch về nước nguồn trị giá 7,5 tỷ đô la và các quan chức liên bang của Mỹ năm ngoái đã cảnh báo người dân sống tại Arizona và Nevada rằng, họ có thể sẽ phải đối mặt với việc lượng nước từ sông Colorado sẽ giảm xuống năm 2016.

 

 

Những phương pháp thủy lợi, thói quen công nghiệp và của người dân cùng với vấn đề biến đổi khí hậu chính là những nguyên nhân gây ra vấn đề này. Nhưng bất chấp việc vấn đề đang trở nên vô cùng khó khăn, các nhà nghiên cứu từ Đại học McGill và Utrecht cho biết có thể xoay chuyển tình hình và giảm đáng kể tình trạng khan hiếm nước chỉ trong vòng 35 năm.

 

Trong một bài báo mới được công bố trên tờ Nature Geoscience, các nhà nghiên cứu đã phác thảo chiến lược thành sáu ý chính mà họ tin rằng có thể kết hợp theo nhiều kiểu khác nhau trên toàn thế giới nhằm giảm vấn đề căng thẳng về nguồn nước một cách hiệu quả. (Căng thẳng nguồn nước xảy ra khi một khu vực bị thiếu hụt hơn 40 phần trăm nước có sẵn do phần nước đó đang được sử dụng – hiện nay đây là một tình trạng ảnh hưởng đến khoảng một phần ba dân số thế giới, và có thể ảnh hưởng đến hơn một nửa dân số thế giới vào cuối thế kỷ này nếu việc sử dụng nước của chúng ta tiếp tục diễn ra như hiện nay).

 

Các nhà nghiên cứu chia thành sáu chiến lược quan trọng nhằm giảm căng thẳng về nguồn nước thành các biện pháp “cứng” gồm việc xây dựng hồ chứa và tăng cường nỗ lực khử muối của nước biển, và các biện pháp “mềm” trong đó tập trung vào việc giảm nhu cầu về nước thay vì tăng cung cấp nước nhờ vào nỗ lực của cộng đồng, quyết tâm, kết hợp công nghệ hiệu quả và bảo vệ môi trường. Các nhà nghiên cứu tin rằng trong khi một số yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội có thể khiến cho một số các biện pháp mềm như kiểm soát dân số, trở nên khó khăn, nhưng những biện pháp mềm này lại cho thấy có thể giảm căng thẳng về nguồn nước thực tế hơn.

 

Các chi tiết về mỗi sáu chiến lược chính quan trọng sẽ được trình bày bên dưới.

 

"Không có giải pháp duy nhất để giải quyết triệt để vấn đề toàn cầu", theo giáo sư Tom Gleeson, làm việc tại Khoa McGill Kỹ thuật Xây dựng Dân dụng và là một trong các tác giả của bài báo cho biết. "Tuy nhiên, nhìn nhận vấn đề quy mô toàn cầu, chúng tôi đã tính toán thấy rằng, nếu bốn trong số những chiến lược này được áp dụng cùng một lúc, chúng ta thực sự có thể ổn định số người trên thế giới đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước”.

 

Đồng tác giả Tiến sĩ Yoshihide Wada từ Khoa Địa Vật Lý tại Đại học Utrecht cho biết "Số lượng người bị thiếu nước sẽ giảm đáng kể vào năm 2050, nhưng cần thiết phải có một cam kết và nỗ lực mang tính chiến lược để có thể thực hiện được điều này".

 

Các chiến lược giảm căng thẳng về nguồn nước

 

"Biện pháp mềm"

 

1. Cải thiện năng suất nước trong nông nghiệp ở các lưu vực thiếu nước nơi thường xuyên được tưới tiêu. Giảm 2% tỷ lệ số dân thiếu nước xuống vào năm 2050 nhờ vào các giống mới, hoặc ứng dụng các chất dinh dưỡng hiệu quả cao hơn. Mối lo ngại đó là về các tác động của biến đổi gen và hiện tượng phì dưỡng.

 

2.Cải thiện hiệu quả của công trình thủy lợi ở các lưu vực nông nghiệp được tưới tiêu. Đổi từ hệ thống thủy lợi lũ sang vòi phun nước có thể giúp đạt được mục tiêu này, nhưng chi phí đầu tư lớn và nhiễm mặn đất có thể xảy ra.

 

3. Cải thiện việc sử dụng nước sinh hoạt và công nghiệp trong các khu vực bị thiếu nước bằng việc giảm mức sử dụng nước sinh hoạt và công nghiệp, ví dụ, bằng cách giảm rò rỉ nước và nâng cấp các các cơ sở tái chế nước.

 

4. Hạn chế tốc độ tăng trưởng dân số có thể giúp ích cải thiện vấn đề thiếu nước, nhưng để cải thiện hoàn toàn vấn đề này thì cần phải giữ dân số  ở dưới mức 8,5 tỷ vào năm 2050, ví dụ, thông qua kế hoạch gia đình và ưu đãi thuế. Tuy nhiên, theo chiều hướng hiện nay điều này không dễ đạt được.

 

"Biện pháp cứng"

 

5. Tăng lượng dự trữ nước trong hồ chứa về nguyên tắc, giúp đỡ có thể giúp ích cho các lưu vực bị thiếu nước có các hồ chứa. Ví dụ, một chiến lược như thế đòi hỏi thêm 600 km3 dung lượng hồ chứa, bằng cách mở rộng các hồ chứa lớn hơn, hạn chế bồi lắng hoặc xây dựng mới. Chiến lược này sẽ cần vốn đầu tư đáng kể, và có thể gây ra các tác động tiêu cực về mặt sinh thái và xã hội.

 

6. Đẩy mạnh khử muối trong nước biển ở các lưu vực thiếu nước ven biển, bằng cách tăng số lượng hoặc hiệu suất của các nhà máy khử muối. Mức độ gia tăng phải lên 50 lần mới tạo ra được một sự khác biệt đáng kể. Điều này đặt ra vấn đề về vốn và tiêu thụ năng lượng đáng kể và nước thải ra cần phải được xử lý một cách an toàn.

 

Thurose - Dostdongnai, theo Sciencenewsline.

Trở lại      In      Số lần xem: 874

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD