Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  12
 Số lượt truy cập :  33463103
Gen kiểm soát tính thấm nước của hạt và hàm lượng canxi của đậu tương
Thứ tư, 24-06-2015 | 07:59:05

Các nhà nghiên cứu của trường Đại học Purdue đã xác định chính xác gien kiểm soát lớp vỏ ngoài của hạt đậu tương là cứng hay có thể thấm qua được, một phát hiện có thể được áp dụng để phát triển các giống tốt hơn cho khu vực phía Nam và vùng nhiệt đới, làm phong phú thêm sự đa dạng di truyền của cây trồng và tăng giá trị dinh dưỡng của đậu tương.

 

Jianxin Ma (Jen-SHIN' Ma) - Phó Giáo sư về nông học và các nhà nghiên cứu đồng nghiệp đã phát hiện ra một đột biến ở gien GmHs1-1 gây ra tình trạng lớp vỏ cứng của hạt đỗ tương hoang dã trở thành có tính thấm. Người nông dân lựa chọn đặc tính đó vào khoảng 5.000 năm trước đây trong một bước quan trọng để thuần hoá từ loài hạt cứng có họ với chúng là Glycine soja.

Gien này có thể được sửa đổi để tạo ra các giống cải tiến cho các vùng trồng mà tại đó tính có thể thấm qua của hạt giống có thể là một điều bất lợi, Ma nói. GmHs1-1 cũng liên quan tới hàm lượng canxi của đậu tương, cung cấp một mục tiêu di truyền để tăng cường dinh dưỡng của sản phẩm đậu tương làm thực phẩm.

Hiểu được cơ chế xác định tính thấm của hạt cũng có thể cung cấp cho các nhà nghiên cứu cách tiếp cận tốt hơn với đa dạng di truyền phần lớn chưa được khai thác của đậu tương hoang dã để làm phong phú thêm cho các giống đưa vào canh tác – các giống thiếu sự phong phú di truyền đã làm hạn chế những cải thiện về năng suất.

Hạt cứng cho phép nhiều loài thực vật hoang dã tồn tại được lâu dài qua thời gian nhờ hạt giống được bảo vệ trong điều kiện và môi trường khắc nghiệt, cho phép chúng tiếp tục duy trì trạng thái ngủ đông cho đến khi gặp điều kiện thích hợp cho sự nảy mầm. Được bọc trong một lớp vỏ kín gió và nước, hạt giống có thể sống sót trong thời gian dài, trong một số trường hợp là hơn 100 năm.

Nhưng lớp da cứng mượn từ giống hoang dã khiến khả năng phục hồi của chúng cũng là một vấn đề trong sản xuất nông nghiệp. Nó ngăn cản hạt giống nảy mầm nhanh và đồng nhất. Hạt đậu tương hoang dã mất vài tuần đến vài tháng để nảy mầm, trong khi hạt giống đậu tương được canh tác có thể bắt đầu hấp thụ nước trong 15 phút.

Các yếu tố di truyền làm cơ sở cho tính thấm của vỏ hạt vẫn còn là một bí ẩn cho đến khi Ma và nhóm của ông đã sử dụng một phương pháp tiếp cận dòng vô tính dựa vào bản đồ để tập trung vào GmHs1-1 dưới hình thức là các gien chịu trách nhiệm về độ cứng của  hạt.

Nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy một đột biến ở một cặp nucleotide trong gien khiến cho vỏ hạt có tính thấm - đó là một thay đổi trong một cặp trong số khoảng 1 tỷ cặp cơ sở tạo nên bộ gien đậu tương.
Ma cho biết việc sửa đổi gien có thể tạo ra các hạt giống cứng hơn cho khu vực miền Nam nước Mỹ và các vùng nhiệt đới, ở đó lớp vỏ mềm của đậu tương được đưa vào canh tác sẽ làm giảm khả năng phát triển và tồn tại của chúng ngay sau khi thu hoạch.

Mục tiêu tiếp theo của nhóm nghiên cứu là xác định các gien tương tác với GmHs1-1 và hiểu cách thức chúng hoạt động với nhau để kiểm soát canxi và hàm lượng khoáng chất có thể khác.

Bài báo đã được công bố trên tạp chí Nature Genetics.
 
K.P. - Mard, theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 905

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD