Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  18
 Số lượt truy cập :  33465622
Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hai cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống
Thứ tư, 19-11-2014 | 12:16:33

Cây  ăn quả có múi (cam, quýt, chanh, bưởi…) là nhóm cây ăn quả quan trọng trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Năm 2011 diện tích cây ăn quả có múi ở Việt Nam đạt 124.057 ha, trong đó diện tích trồng cam quýt là 70.300 ha, bưởi 45.000 ha, chanh là 18.000 ha. Các loại quả có múi không chỉ là hàng hóa đáp ứng cho tiêu thụ nội địa mà còn là loại mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Nghề trồng cây ăn quả có múi được phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. Song sự đa dạng khí hậu ở các vùng trồng trọt là điều kiện thích hợp cho nhiều loài sâu bệnh phát sinh gây hại cây có múi, đặt biệt là bệnh vàng lá greening (VLG) một trong những nhân tố trở ngại chính để phát triển cây có múi đã lan truyền gây hại hầu hết các nước trồng cây ăn quả có múi.

 

Bệnh VLG lan truyền từ các vật liệu nhân giống như cành chiết, mắt ghép đã nhiễm bệnh và côn trùng môi giới. Những nghiên cứu bước đầu về bệnh này ở Việt Nam đã được tiến hành, song những vấn đề về bản chất của bệnh vẫn chưa được tìm hiểu một cách đầy đủ. Vì vậy, những biện pháp phòng trừ bệnh vẫn còn ít hiệu quả. vì vậy "Nghiên cứu bệnh vàng lá greening hai cây ăn quả có múi ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và đề xuất biện pháp phòng chống” mang tính thời sự cấp thiết.

 

Kết quả đã đạt:

 

i) các vùng trồng cây ăn quả có múi chính ở phía Bắc Việt Nam bị nhiễm bệnh VLG với tỉ lệ bệnh 10,49 – 50,93%. Bệnh VLG thường phát sinh cùng các bệnh vi rút. Trong tổng số mẫu dương tính với bệnh VLG có 58,33-73,33% mẫu hỗn hợp cùng bệnh tristeza với triệu chứng sưng nổ gân lá, cây thấp lùn, vàng lá gân trong và 35,07% mẫu bị nhiễm cùng với các bnệh tristeza, tatter leaf, bệnh exocortis.

 

ii) bằng kỹ thuật hiển vi điện tử đã xác định được vi khuẩn gây bệnh VLG (liberibacter asiaticus) làm thoái hóa mạch dẫn, gây tích tụ tinh bột làm hoại tử lục lạp. Sử dụng cặp một đặc hiệu của Sandrine Jagoueix (16S); A. hocquellet (A2J2) và Hung et al (1999) kết hợp cải tiến bước tách chiết DNA bằng NaOH cho kết quả nhanh, độ chính xác tương đương với sử dụng kít chẩn đón, giá thành rẻ, không sử dụng hóa chất độc hại. Bệnh VLG nhanh biểu hiện triệu chứng trên cam Xã Đoài, cam Canh sau 45 ngày ghép lây bệnh nhân tạo. Mật độ RCC là 6 con/cây hoặc 9 con/cây tiếp xúc trong 24 giờ, triệu chứng bệnh (tương ứng) chỉ xuất hiện sau 9 tháng và 6 tháng lây nhiễm trên giống cam Xã Đoài và cam Canh. Lần đầu tiên xác định cây tiền chót (Severinia buxifolia) thu thập được ở Thọ Xuân, Thanh Hóa là ký chủ mẫu cảm với bệnh vàng lá greening.

 

iii) bằng phản ứng của mẫu bệnh VLG với cây chỉ thị và một số chủng loại cây ăn quả (cam, quýt, bưởi, quất) kết hợp với kỹ thuật duplex-PCR đã xác định được vi khuẩn gây bệnh VLG ở phía Bắc thuộc chủng I và II. Chủng II lần đầu tiên ghi nhận ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam. Tại Hà Nội, Bắc Giang, Hà Giang, Nghệ An và Hòa Bình có tỉ lệ mẫu nhiễm chủng I cao hơn tỉ lệ mẫu nhiễm chủng II (tương ứng là 53,84 - 66,67% và 33,33 - 46,16%). Ở Hưng Yên và Thừa Thiên Huế có tỉ lệ mẫu nhiễm chủng I (33,33 – 40%) thấp hơn tỉ lệ mẫu nhiễm mang chủng II (60 – 66,67%). Tại Quảng Ninh tỷ lệ mẫu nhiễm hai chủng ngang nhau.

 

iv) xác định được gốc ghép ở 2 – 3 tuần tuổi trên môi trường MS kết hợp với 0,5 gam than hoạt tính để nuôi gốc ghép lần 1 là phù hợp nhất cho vi ghép đinh sinh trưởng. Tỷ lệ sống trung bình của cây vi ghép đỉnh sinh trưởng lần 1 tăng từ 23,2 – 28,5% (đối với bưởi và cam) đến 34,0 – 41,7% (đối với bưởi Phục Hòa, cam Trưng Vương). Bổ sung BAP 0,5mg/lít vào môi trường MS lỏng làm tăng tỷ lệ sống cao nhất và kích thích sinh trưởng cho chồi vi ghép đạt 44,3%. Bổ sung chất điều tiết sinh trưởng (i-inositol, thiamine-HCL, pyridoxine – HCL, nicotine) cho tỉ lệ thành công trong vi ghép lần 1 là 34,28% nhưng rút ngắn được thời gian lưu giữ cây vi ghép lần 1 trong phòng thí nghiệm và cây gốc ghép lần 2 (1,5 đến 2 tháng tuổi xử lý). Đỉnh sinh trưởng gồm mô phân sinh và 2 lá mầm cho hiệu quả sạch bệnh cao nhất, thu được 100% số cây sạch bệnh VLG và 63,3 – 73,3 % cây sạch bệnh tristeza. Sử dụng hỗn hợp bầu không đất gồm các vàng, mùn cưa gổ tạp và phân mùn vi sinh (theo tỷ lệ 1/5:2/5:2/5) sau 4 tháng ra ngôi cây gốc ghép đạt tiêu chuẩn để sản xuất cây giống sạch bệnh.

 

v) đề xuất được các giải pháp chống tái nhiễm bệnh VLG và hạn chế sự lây lan của bệnh trên đồng ruộng đạt hiệu quả (xử lý cành mắt ghép bằng Streptomycine 1% tiêu hủy nguồn gây bệnh, trồng giống sạch bệnh, thời vụ và mật độ trồng, biện pháp canh tác, hóa học, huấn luyện ..v.v). Sau hai năm tỷ lệ cây bị tái nhiễm bệnh VLG chỉ chiếm 5,33%.

 

NCS Lê Mai Nhất.

Trở lại      In      Số lần xem: 2505

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD