Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  17
 Số lượt truy cập :  33449163
Nghiên cứu cải thiện đánh giá di truyền cho tính trạng của gia súc
Thứ bảy, 27-09-2014 | 06:32:12

Các nhà khoa học của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) hiện đang nghiên cứu các phương pháp để giúp các nhà sản xuất bò thịt cải thiện đánh giá di truyền các tính trạng được đo lại thường xuyên như: tăng trưởng và khả năng sinh sản dễ dàng.

 

Họ cũng hướng mục tiêu vào những đặc điểm quan trọng về mặt kinh tế như: hiệu quả sử dụng thức ăn và khả năng kháng bệnh – những đặc điểm khó đo được.

Trong năm 2007, các nhà khoa học đã bắt đầu "Dự án 2.000 bò đực" tại Trung tâm Nghiên cứu Thịt động vật Mỹ Roman L. Hruska (USMARC) trực thuộc Cơ quan Nghiên cứu nông nghiệp (ARS) tại Trung tâm Clay, Nebraska, để nghiên cứu mối quan hệ giữa biến đổi gien và tính trạng quan trọng về kinh tế ở 16 giống bò.

Các nhà di truyền học của USMARC là Mark Thallman và Larry Kuehn và các đồng nghiệp của họ đã làm việc với các hội liên hiệp về giống bò Mỹ để có được hồ sơ về di truyền của 2.000 con bò đực từ 16 giống đó để thúc đẩy thực hiện các dự đoán di truyền. Đối với mỗi giống, dự án này đã mang lại tập hợp kiểu gien mật độ cao quan trọng đầu tiên, đang được sử dụng bởi các hội liên hiệp giống như một điểm khởi đầu để kết hợp dữ liệu di truyền vào các chương trình cải tiến con giống của họ.

Tăng trưởng là một đặc điểm thường xuyên và dễ dàng đo được liên quan tới việc tiêu thụ thức ăn, nhưng hiệu quả thức ăn – lượng thức ăn tiêu thụ của vật nuôi cần thiết để sản xuất ra một đơn vị tăng trưởng là có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế hơn đối với người sản xuất. Tuy nhiên, riêng lượng tiêu thụ thức ăn là không thực tế để đánh giá số lượng lớn các vật nuôi trong hoạt động thương mại. Thay vào đó, một cách tiếp cận khả thi hơn là sử dụng các quần thể nghiên cứu để phát triển các dự đoán di truyền cho các đặc điểm như: lượng tiêu thụ thức ăn của từng con, khả năng kháng bệnh và độ mềm của thịt – những đặc điểm gây tốn kém để đo lại hoặc khó đo lại được.

Tại USMARC, hàng ngàn gia súc đã được đánh giá về các đặc điểm này, và khoảng 15.000 là kiểu di truyền. Mục tiêu của nghiên cứu là phát hiện vùng gien có ảnh hưởng đến những đặc điểm này để cải thiện tính chính xác của các xét nghiệm di truyền có sẵn cho người sản xuất. Các nhà khoa học cũng đã giải trình tự bộ gien của những con bò đực có nhiều con cháu nhất trong quần thể ở USMARC, có thể dẫn đến những dự đoán chính xác hơn về lai tạo giống và sẽ hữu ích cho ngành này.

Nhà di truyền học Warren Snelling đang tập trung vào việc xác định sự thay đổi trình tự ADN gây ảnh hưởng đến chức năng gien để giúp dự đoán những đặc điểm quan trọng phù hợp với nhiều giống. Snelling đã chứng minh được rằng kỹ thuật này có thể được sử dụng để xác định các marker di truyền dự đoán độ mềm của thịt.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Nghiên cứu Nông nghiệp, số ra tháng 9 năm 2014.
 
M.T. - Mard, theo ARS.
Trở lại      In      Số lần xem: 850

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD