Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  18
 Số lượt truy cập :  33458923
Nghiên cứu cho thấy CO2 khiến địa cầu ấm lên nhanh hơn người ta từng lo sợ
Chủ nhật, 07-12-2014 | 06:10:04

Bất kỳ một nguồn khí thải CO2 nào sẽ gây tác động ấm lên tối đa chỉ 10 năm sau đó, đó là kết luận được rút ra từ một nghiên cứu của Viện khoa học Carnegie. Viện vật lý học (IOP) cho biết nghiên cứu này đã xua tan một quan điểm sai lầm phổ biến rằng hiệu ứng ấm lên của phát thải CO2 vẫn chưa cảm nhận được trong nhiều thập kỷ.

 

Nghiên cứu mới khẳng định chỉ mất 10 năm để phát thải CO2 gây tác động tối đa (Ảnh: NASA)

 

Nhà nghiên cứu dẫn đầu Katharine Ricke cho biết: “Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng con người đang sống ngày nay rất có khả năng sẽ được hưởng lợi từ lượng phát thải tránh được ngay từ hôm nay và phát thải đó không chỉ có tích lũy để gây ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Phát hiện của chúng đã đẩy lùi các quan niệm sai lầm trước đây về khung thời gian mà đã góp phần quan trọng trong thất bại của chúng ta khi tìm kiếm một sự đồng thuận về chính sách”.

 

Các phát hiện quan trọng của nghiên cứu bao gồm:

  • Một nguồn phát thải CO2 duy nhất sẽ có tác động tối đa lên trái đất trung bình 10 năm sau khi nó được thải ra;

  • điều đó cũng có nghĩa rằng lợi ích của việc giảm phát thải CO2 cũng có thể được cảm nhận sớm hơn, điều mà IOP cho ra có thể giúp tránh được hạn hán, sóng nhiệt và lũ lụt;

  •  và hiệu ứng ấm lên có thể tồn tại dai dẳng hơn một thế kỷ.

Nghiên cứu đã xem xét kết quả từ 2 dự án mô hình hóa khí hậu: một dự án về thời gian cần để đại dương và sinh quyển dung nạp một lượng lớn CO2 khí quyển; và dự án còn lại về hệ thống khí hậu trái đất vốn cũng được Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu sử dụng trong đánh giá mới nhất của ban.

 

Con số chính xác này, thực tế là 10,1 năm, là thời gian trung bình để một nguồn phát thải gây tác động tối đa. Theo nghiên cứu, có 90% khả năng tác động tối đa sẽ xuất hiện trong khoảng 6,6 đến 30,7 năm sau thời điểm phát thải.

 

Độ trễ 10 năm này là do thực tế rằng cần thời gian lâu hơn để các lớp đại bề mặt đại dương ấm lên hơn khí quyển – chính nhiệt độ đại dương là nguyên nhân khí hậu thay đổi về tổng thể.

 

Nếu có hy vọng thì đó cũng có nghĩa rằng lợi ích của việc giảm thải khí CO2 cũng sẽ được cảm nhận sớm hơn là muộn.

 

Các nhà nghiên cứu cho rằng sự không chắc chắn đáng kể về mức độ và độ dài ấm lên là do sự không chắc chắn về độ nhạy khí hậu, chu kỳ cacbon và quán tính nhiệt của hệ thống khí hậu.

 

“Ba yếu tố không chắc chắn này đã góp phần đáng kể vào sự không chắc chắn tổng thể về việc định thời gian của sự ấm lên tối đa liên quan tới việc phát thải ngày hôm nay”, Ricke cho biết. “Các phân tích mà chúng tôi thực hiện, vốn dựa trên kết quả từ các mô hình chu kỳ cacbon và khí hậu tốt nhất hiện có, chỉ ra rằng dự đoán chuẩn nhất về thời gian tác động tối đa của phát thải chỉ là một thập kỷ, ngắn hơn đáng kể so với dự đoán tốt nhất mà các nhà khoa học đưa ra trước đó”.

 

“Nhưng để thu hẹp đáng kể phạm vi khả năng rất cao 90% trong 6 đến 30 năm cho tới khi ấm lên tối đa này, chúng ta cần làm việc để nâng cao hiểu biết về toàn bộ các thành phần không chắc chắn của các ước tính này, không chỉ là độ nhạy của khí hậu”.

 

Theo Ricke, đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét khoảng thời gian cần để một nguồn phát thải CO2 bắt đầu gây tác động.

 

L.H - Dostdongnai, theo Gizmag.

Trở lại      In      Số lần xem: 2774

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD