Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  21
 Số lượt truy cập :  33359541
Nghiên cứu chọn tạo giống lúa kháng rầy nâu với sự trợ giúp của chỉ thị phân tử
Thứ năm, 06-11-2014 | 11:07:19

Trong công tác chọn giống lúa kháng rầy nâu thì việc sử dụng chỉ thị phân tử liên kết với các gen kháng rầy nâu được coi là hiệu quả và ưu việt. Cho đến nay, biện pháp chủ yếu để ngăn chặn dịch rầy nâu là sử dụng thuốc hoá học. Tuy nhiên, việc sử dụng tràn lan các loại thuốc trừ sâu hay sử dụng thuốc trừ sâu không đúng liều còn là nguyên nhân gây bùng phát của loại côn trùng này như kết quả của sự thích nghi có chọn lọc (Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lang,2007) [4]. Các phương pháp chọn giống truyền thống thông thường để chọn thành công một giống lúa mới ít nhất phải mất từ 5 - 10 năm. Hơn nữa, quá trình chọn lọc gặp nhiều khó khăn, tốn kém về sức người, sức của. Hiện nay, nhờ sự phát triển của công nghệ sinh học nói chung và công nghệ chỉ thị phân tử (CTPT) nói riêng đã tạo ra một công cụ hữu ích cho các nhà chọn giống (Bùi Bá Bổng, 2007)[7]. Phương pháp chọn giống nhờ chỉ thị phân tử (MAS - Marker-Assisted Seletion) sử dụng các chỉ thị phân tử liên kết với các gen mong muốn vừa nâng cao hiệu quả chọn lọc, vừa rút ngắn thời gian chọn giống (Bộ NN&PTNT, 2013) [1]. Đến nay đã có hơn chục nghìn chỉ thị phân tử SSR ở lúa được phát hiện và thiết kế. Các nghiên cứu về tìm chỉ thị phân tử liên kết với gen kháng rầy nâu đã được tiến hành ở một số phòng thí nghiệm trên thế giới.

 

Để góp phần vào công tác chọn giống lúa kháng rầy nâu, thì việc sử dụng chỉ thị phân tử liên kết với các gen kháng rầy nâu được coi là hiệu quả và ưu việt. Nghiên cứu sinh Phùng Tôn Quyền đã tiến hành thực hiện đề tài “ Nghiên cứu chọn tạo giống lúa kháng rầy nâu với sự trợ giúp của chỉ thị phân tử”.

 

Kết quả đã: i) Đánh giá tính kháng rầy nâu của tập đoàn 144 dòng/giống lúa thu thập ở ĐBSH và ĐBSCL. Độc tính của rầy nâu tại các tỉnh phía Bắc đang có chiều hướng tăng lên so với các năm trước. Hầu hết các giống trồng phổ biến bị nhiễm rầy. ii) Đánh giá tính kháng rầy nâu của các dòng/giống mang gen kháng rầy, chọn được dòng IS1.2 kháng cao với quần thể rầy nâu ở ĐBSH và ĐBSCL, mang hai gen kháng rầy Bph3 và BphZ(t), làm dòng cho gen kháng; IR64 làm dòng nhận gen kháng. iii) Chọn tạo một số dòng lúa, trong đó có dòng DTR64 và KR8 mang hai gen kháng rầy nâu bằng  phương pháp lai hồi giao kết hợp với tự  thụ, chọn lọc gen kháng phối hợp đánh giá tính kháng rầy nâu  và chọn giống truyền thống. iv) Xác định tính kháng rầy nâu của dòng KR8, bằng phương pháp chuẩn của IRRI với các nguồn rầy nâu thu thập tại Hà Nội, Nam Định, Nghệ An, Đồng Tháp, đạt điểm kháng rầy từ 1 đến 3. v) Chọn được giống lúa KR8 có năng suất vụ  xuân từ  6,78  –  7,06 (tấn/ha), vụ mùa 5,94 – 6,30 (tấn/ha). Trong khảo nghiệm quốc gia năng suất trung bình tại 8 tỉnh phía Bắc giống KR8 đạt 6,48 (tấn/ha), trong đó KD18 đạt 6,20 (tấn/ha), như vậy KR8 có năng suất cao hơn KD18 là 9,5%. Giống KR8 đã đạt năng suất cao trong điều kiện thâm canh vụ xuân đạt 7,12 đến 7,15 (tấn/ha), vụ mùa đạt 6,08 đến 6,30 (tấn/ha). vi) Vụ xuân 2012, giống KR8 đã được Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng và phân bón Quốc gia, đánh giá là giống có triển vọng, kháng rầy nâu.

 

Phùng Tôn Quyền.

Trở lại      In      Số lần xem: 2780

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD