Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  13
 Số lượt truy cập :  33464849
Nghiên cứu thực địa cho thấy tỉ lệ thành công trong việc chống lại sâu bệnh của cây trồng biến đổi gien đang giảm sút
Thứ bảy, 23-05-2015 | 05:59:51

Một nghiên cứu mới đây của trường Đại học Bắc Carolina và Đại học Clemson đã phát hiện thấy độc tố trong một cây trồng biến đổi gien (GM) được sử dụng phổ biến có tác động không đáng kể đến loài sâu bướm hại cây trồng (Helicoverpa zea) - điều này phù hợp với các dự báo gần như đã bị lãng quên từ 20 năm trước.

 

Nghiên cứu này có thể là một tín hiệu để chúng ta chú ý hơn tới các dấu hiệu cảnh báo về sự phát triển của tính kháng sâu bệnh gây hại cây nông nghiệp ở cây trồng biến đổi gien.

Vấn đề ở đây là ngô biến đổi gien sản sinh ra prôtêin Bacillus thuringiensis (Bt) - prôtêin tạo ra một chất độc gọi là Cry1Ab. Ngô biến đổi gien này ban đầu được tạo ra để xử lý một sâu bệnh gây hại được gọi là sâu đục thân châu Âu hại ngô (Ostrinia nubilalis) và được đưa ra thị trường vào năm 1996.

Vào cuối những năm 1990, các nhà khoa học phát hiện ra rằng Cry1Ab cũng khá hiệu quả trong việc chống lại H. zea. Nhưng các nhà khoa học cũng dự đoán rằng đủ H. zea đã sống sót dẫn đến sự ra đời của các loài phát triển tính kháng Cry1Ab. Công trình này đã được thực hiện một phần bởi Fred Gould - một nhà nghiên cứu côn trùng học tại Bắc Carolina.

"Chúng tôi muốn thực hiện một nghiên cứu quan sát trong lĩnh vực này để xem xét xem mọi thứ đã thay đổi như thế nào kể từ nghiên cứu được thực hiện trong những năm 90 - đã có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy zea đã trở nên đề kháng hay chưa", Dominic Reisig - Giáo sư ngành côn trùng học tại Bắc Carolina và là tác giả chính của bài báo mô tả nghiên cứu mới này cho biết.

Reisig và cộng sự của ông là Francis Reay-Jones của trường Đại học Clemson đã đánh giá các địa điểm trồng ngô ở cả Bắc Carolina và Nam Carolina trong hơn hai năm - và kết quả là khá rõ ràng.

Vào cuối những năm 1990, Cry1Ab đã làm giảm số lượng ấu trùng H. zea và kích thước của ấu trùng so với ngô không Bt. Nhưng Reisig và Reay-Jones phát hiện thấy rằng Cry1Ab hiện nay có rất ít hoặc không có tác động nào đến số lượng hoặc kích thước của ấu trùng H. zea so với ngô không Bt.

"Có một cảnh báo rằng zea có thể phát triển một tính kháng độc tố này", Reisig nói. "Nhưng không có thay đổi nào được thực hiện trong cách thức quản lý Cry1Ab, và hiện tại zea đã phát triển tính kháng".

Tuy nhiên, Reisig lưu ý rằng không thể nói rằng H. zea đã phát triển tính kháng một cách chắc chắn, bởi vì nghiên cứu này chỉ là một thử nghiệm thực địa, chứ không phải là một cuộc thử nghiệm được thực hiện trong phòng thí nghiệm với độc tố Cry1Ab tinh khiết.

"Chúng tôi tập trung vào việc xác định xem liệu có hay không những tác động trong thế giới thực, và kết quả là có", Reisig nói. "Điều này cũng có thể giải thích lý do tại sao zea - một loài sâu hại cây bông đang trở nên ít phản ứng với một độc tố có liên quan được sử dụng trong cây bông biến đổi gien được gọi là Cry1Ac.

"Những phát hiện này là một lời nhắc nhở rằng chúng ta cần phải chú ý đến những manh mối tiềm ẩn về phát triển tính kháng", Reisig nói. "Chúng ta không thể mong đợi luôn sẵn có một độc tố biến đổi gien mới để thay thế cái cũ".
 
M.T. - Mard, theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 779

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD