Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  19
 Số lượt truy cập :  33449099
Phát hiện mới về nhu cầu dinh dưỡng ở cây đậu tương
Thứ hai, 30-03-2015 | 08:34:40

Trong nhiều thập kỷ qua, đã có những cải thiện đáng kể trong năng suất đậu tương. Bởi vì có các giống mới và và phương pháp nông học mới nên tiềm năng sản lượng đậu tương cao hơn bao giờ hết. Nhưng việc thiếu đi thông tin cập nhật về nhu cầu dinh dưỡng mà cây đậu tương cần có thể hạn chế tiềm năng của cây trồng này.

Các nhà nghiên cứu từ Phòng thí nghiệm Sinh lý học Cây trồng Đại học Illinois gần đây đã cung cấp thông tin cập nhật về nhu cầu dinh dưỡng ở cây đậu tương, xác định chính xác loại chất dinh dưỡng mà cây cần, thời gian tích lũy của các chất dinh dưỡng đó trong suốt mùa canh tác, và nơi cây sử dụng các chất dinh dưỡng này.

Qua thử nghiệm thực địa trong ba năm tại các địa điểm ở DeKalb và Champaign, các nhà nghiên cứu xác định rằng một số nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng có thể đã không nhận được sự quan tâm thích đáng với các phương pháp quản lý hiện nay.

Ross Bender, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết rằng một trong những phát hiện quan trọng hơn của nghiên cứu là, dường như có sự tích lũy các chất dinh dưỡng trong thời gian nở hạt lớn hơn đáng kể so với trong quá khứ.

"Bởi vì chúng ta có tiềm năng năng suất cao hơn nên nông dân của chúng ta hiện đang sản xuất đậu nhiều hơn bao giờ hết", Bender cho biết. "Kết quả là, đậu năng suất cao với rất nhiều chất dinh dưỡng tập trung trong chúng đã tạo ra một số ảnh hưởng khi một số các chất dinh dưỡng được tích lũy. Chúng ta có nhiều hạt hơn phát triển sau đó trong mùa, ngay trước khi thu hoạch, và điều đó thực sự dẫn đến sự tích lũy chất dinh dưỡng tăng lên.

"Đó là một trong những phát hiện khá thú vị khi số lượng lớn các chất dinh dưỡng tích lũy trong suốt vòng đời của cây, nhưng đặc biệt là trong nửa mùa cuối", ông cho biết thêm.

Để xác định nhu cầu dinh dưỡng, các nhà nghiên cứu đã đo sự tích lũy chất dinh dưỡng trong suốt quá trình phát triển toàn bộ mùa trồng. Họ đo các chất dinh dưỡng đa lượng, bao gồm nitơ (N), kali (K), và phốt pho (P) - những chất dinh dưỡng đa lượng chính cho đậu tương - và các chất dinh dưỡng đa lượng thứ cấp gồm magiê (Mg), canxi (Ca), và lưu huỳnh (S). Họ cũng đo các vi chất dinh dưỡng cần thiết với số lượng ít hơn, bao gồm bo (B), đồng (Cu), sắt (Fe), mangan (Mn), và kẽm (Zn).

Hai tiêu chí được sử dụng để ước lượng loại chất dinh dưỡng quan trọng nhất sẽ xác định liệu chất dinh dưỡng đó có tổng hấp thu cao hay không (nitơ, kali, phốt pho, canxi là cao nhất), và tìm ra chỉ số thu hoạch (HI) của mỗi chất dinh dưỡng, hay tỷ lệ tổng tích lũy chất dinh dưỡng đi vào hạt. Các chất dinh dưỡng chỉ số HI cao có nghĩa là hầu hết những gì mà cây hấp thu trong suốt mùa trồng trọt nằm ở trong hạt.

"Nếu chúng ta muốn sản xuất nhiều hạt hơn, và một số chất dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra hạt đó, thì việc cung cấp chất dinh dưỡng tốt hơn khi hạt đang phát triển có thể giúp chúng ta cải thiện năng suất", Bender cho hay.

Thay vào đó, Bender cho biết những gì mà người nông dân thường làm theo cách truyền thống và phổ biến ở Illinois, là thường xuyên cung cấp lượng lớn phốt pho (phosphate) trước khi trồng ngô, với hy vọng rằng chừng đó sẽ đủ cho mùa ngô năm đó và tiếp tục đủ cho mùa đậu tương tiếp theo.

"Nếu nông dân bón phân cho đậu tương, thì có lẽ chỉ bằng kali vì có quan niệm cho rằng chất dinh dưỡng duy nhất quan trọng trong đậu tương là kali", ông cho hay. "Kết quả là, họ có thể cung cấp kali trước mùa đậu tương, nhưng lại hy vọng ròng phosphate [còn lại sau mùa trồng ngô] sẽ đủ cho nhu cầu đậu tương.

"Những gì chúng ta nhìn thấy trong nghiên cứu này là có một sự tích lũy lớn của cả 2 chất dinh dưỡng này, nhưng chúng ta cũng thấy rằng nhu cầu phosphate trong mùa nhiều hơn và chất dinh dưỡng này có thể đang bị bỏ qua. Nếu một người sản xuất cung cấp tốt chất dinh dưỡng đó trước mùa ngô của mình, với hy vọng rằng một cái gì đó vẫn sẽ ở đó từ 18 đến 20 tháng sau đó cho mùa đậu tương, thì có lẽ sẽ không có nhiều như vậy như họ suy nghĩ. Nhưng khi chúng tôi bón phosphate, thì chúng tôi nhận thấy có một số cải thiện về sản lượng khá đáng kể", Bender cho biết.

Các nhà nghiên cứu xác định rằng phosphate (phospho) có tiềm năng nhất để cải thiện năng suất. Chất dinh dưỡng này được tích lũy trong khoảng thời gian 70 ngày trong suốt mùa sinh trưởng, và được đưa vào hạt vào cuối mùa nhiều hơn so với bất kỳ chất dinh dưỡng nào. Tuy nhiên, Bender cũng cho biết, "làm thế nào để cung cấp phosphate khi cây cần nó vào cuối mùa sinh trưởng là một trong những thách thức".

Ngoài phosphate và kali, Bender còn cho biết nitơ, lưu huỳnh và đồng cũng cho thấy là những chất dinh dưỡng quan trọng để tiếp tục duy trì năng suất cao.

Nitơ quan trọng nhất vào cuối mùa vì hạt chứa rất nhiều protein được tạo thành từ nitơ. Đây là lý do tại sao hạt đậu nành được coi là một nguồn thức ăn tốt. Bender cho biết sản lượng đậu tương càng cao, thì càng có nhiều protein hơn được tạo ra và càng cần thêm nhiều nitơ hơn. Mặc dù nitơ có thể không được coi là một chất dinh dưỡng quan trọng, vì đậu tương có thể lấy nitơ từ không khí, nhưng cách cây chuyển nitơ từ lá đến hạt trong mùa sinh trưởng (khoảng 50 ngày liên tiếp) chứng minh rằng nó là một chất dinh dưỡng thiết yếu để tạo hạt và tăng sản lượng.

Lưu huỳnh là một chất dinh dưỡng khác cũng cần được xem xét để sử dụng ở dạng phân bón. Bởi vì có ít lưu huỳnh hơn từ khí quyển hiện nay, do nhiên liệu sạch hơn chẳng hạn, nên có ít lưu huỳnh hơn lắng đọng trong các cánh đồng hàng năm. Ngoài ra, lưu huỳnh – cần có lượng lớn để tạo hạt - cần phải được quản lý một cách hiệu quả hơn.

Vi chất dinh dưỡng mà họ xác định là thú vị nhất là đồng do sự phân bố của nó vào hạt (60 phần trăm đồng trong cây nằm ở trong hạt vào cuối mùa). “Chúng tôi không biết rằng liệu điều này có nghĩa là chúng ta cần phải bón phân đồng hay không, bởi vì cây không cần phải tích lũy nó nhiều, nhưng đây quả là điều thú vị", Bender nói.

Với những thay đổi này trong mùa đậu tương, nên Bender cho rằng phương pháp cung cấp chất dinh dưỡng ngay trước khi cây được trồng và trong suốt mùa thực sự cho thấy hứa hẹn sẽ giúp các nhà sản xuất.

Thanh Vân - Dostdongnai, theo Eurekalert.

Trở lại      In      Số lần xem: 1660

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD