Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  12
 Số lượt truy cập :  33463866
Rễ của loài cỏ làm thức ăn chăn nuôi giúp kìm hãm biến đổi khí hậu toàn cầu
Thứ ba, 17-09-2013 | 08:21:37

Các nhà khoa học đã đưa ra bằng chứng mới cho thấy cơ chế hoạt động của một chất hóa học mạnh trong rễ của cỏ nhiệt đới dùng làm thức ăn chăn nuôi có tiềm năng lớn làm giảm phát thải khí nhà kính.

 

Được gọi là "ức chế nitrat hóa sinh học" hoặc BNI - cơ chế làm giảm đáng kể chuyển đổi của nitơ bón cho đất trồng dưới dạng phân bón đưa nitơ oxit vào đất. Nitơ oxit là khí nhà kính mạnh nhất tiềm ẩn gây hiện tượng ấm lên toàn cầu gấp 300 lần so với khí CO2 .

Nitơ oxit chiếm khoảng 38% của tất cả các phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp, chiếm gần 1/3 tổng lượng phát thải trên toàn thế giới, Michael Peters – tác giả chính của nghiên cứu về thức ăn thô xanh tại Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới quốc tế (CIAT) và là một thành viên của Tổ chức Tư vấn Nghiên cứu Nông nghiệp quốc tế (CGIAR).

Các nhà khoa học ở CIAT và Trung tâm Nghiên cứu khoa học nông nghiệp quốc tế của Nhật Bản (JIRCAS) đã hợp tác nghiên cứu về BNI trong 15 năm qua.

Cách tiếp cận này đưa đến tiềm năng giảm được lượng khí thải oxit nitơ và rò rỉ nitrát gây ô nhiễm vào nguồn nước, đồng thời nâng cao năng suất cho cây trồng thông qua sử dụng hiệu quả hơn nguồn phân đạm, GV. Subbarao - nhà khoa học cao cấp tại JIRCAS cho biết.

Các nhà khoa học đã triển khai các phương pháp nghiên cứu về BNI trên một quy mô lớn:

-  Các nhà nghiên cứu của CIAT đã tìm cách để tăng BNI thông qua lai tạo giống cho các giống cỏ Brachiaria khác nhau. Các kỹ thuật mới bao gồm các phương pháp để nhanh chóng xác định số lượng BNI trong cỏ Brachiaria cùng với các marker phân tử có khả năng làm giảm thời gian cần thiết cho các thử nghiệm thực địa.

-  Các nhà khoa học tại Trung tâm cũng đã thu thập bằng chứng cho thấy một giống ngô được trồng sau khi trồng cỏ Brachiaria humidicola cho năng suất tiêu chuẩn với chỉ một nửa lượng phân bón nitơ thường được sử dụng, bởi vì nhiều nitơ hơn đã được giữ lại trong đất, do đó làm giảm lượng khí thải oxit nitơ và rò rỉ nitrat. Các nhà nghiên cứu xác định rằng BNI đã thúc đẩy hiệu quả sử dụng nitơ theo hệ số 3,8.

-  Ngoài ra, các nhà khoa học đã phát triển dòng lai của cỏ Brachiaria humidicola và chuyển giao chúng (với sự hỗ trợ từ Chính phủ Đức) cho nông dân ở Colombia và Nicaragua cho các thử nghiệm về năng suất và chất lượng. Các dòng cỏ lai trước đó đã làm tăng sản lượng sữa và thịt so với các loại cỏ thảo nguyên bản địa, và tăng ít nhất là 30% so với các giống cỏ thương mại. Dựa trên đánh giá của các giống lai mới và với sự trợ giúp của các mô hình mô phỏng, các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu xem ở những nơi khác các dòng lai này có thể được đưa vào trồng và chúng có thể được trồng trên một quy mô lớn như thế nào.

Chăn nuôi cung cấp sinh kế cho một tỷ người, nhưng nó cũng đóng góp khoảng một nửa lượng phát thải khí nhà kính nông nghiệp, Peters giải thích. BNI là một công nghệ có lợi cho chăn nuôi ở khu vực nông thôn cũng như môi trường và khí hậu toàn cầu.

Vấn đề là hệ thống cây trồng và vật nuôi ngày nay “có chỗ hở”, Subbarao cho biết. Khoảng 70% trong số 150 triệu tấn phân đạm sử dụng bón trên toàn cầu bị thất thoát thông qua rò rỉ nitrat và lượng phát thải oxit nitơ, lượng phân bón bị mất có giá trị ước tính 90 tỷ USD hàng năm.

BNI có khả năng rất lớn để giảm rò rỉ nitơ, Idupulapati Rao - nhà khoa học của CIAT cho biết. Đồng cỏ chăn thả sử dụng nhiều đất nông nghiệp nhất – chiếm 3,2 tỷ ha trong tổng số 4,9 tỷ ha của toàn cầu. Riêng tại Braxin, 11 triệu ha đồng cỏ đã được chuyển đổi sang trồng ngô và đậu tương, và 35-40 triệu khác có thể được chuyển sang sản xuất nông nghiệp trong tương lai gần. Thay vì tăng độc canh, các nước đang phát triển cần phải tích hợp trồng cỏ Brachiaria trong các hệ thống cây trồng - vật nuôi hỗn hợp trên quy mô lớn để đảm bảo canh tác bền vững hơn.

Có nguồn gốc từ châu Phi cận Sahara, loài cỏ Brachiaria được phát hiện thấy trên đường đến Nam Mỹ vào thế kỷ trước. Các giống cỏ được cải thiện sẽ được trồng rộng rãi trên đồng cỏ ở Braxin, Colombia, và các nước khác, và gần đây chúng đã được đưa trở lại châu Phi để giúp giảm bớt tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng thức ăn thô xanh cho chăn nuôi.

Trong một đột phá lớn, các nhà khoa học của JIRCAS cách đây vài năm đã phát hiện thấy các chất hóa học là nguyên nhân gây ra BNI và phát triển một phương pháp đáng tin cậy để phát hiện các chất ức chế quá trình nitrat hóa xuất phát từ rễ cây. Các nhà khoa học ở CIAT sau đó xác nhận các khái niệm BNI trong lĩnh vực này, họ đã chứng minh cỏ Brachiaria ức chế quá trình nitrat hóa và khí thải oxit nitơ, so với đậu nành còn thiếu khả năng này.

Nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng cỏ Brachiaria ăn sâu dưới đất giữ một lượng lớn cácbon trong khí quyển – với một quy mô tương tự như của rừng nhiệt đới - một điểm cộng thêm cho khả năng giảm thiểu biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu BNI là một phần của một sáng kiến lớn hơn liên quan đến LivestockPlus được đề xuất để mang lại lợi ích lớn cho người nghèo và cho môi trường thông qua nghiên cứu sáng tạo về cỏ nhiệt đới và các loại đậu làm thức ăn thô xanh cho gia súc.

Sáng kiến LivestockPlus diễn ra trong khuôn khổ của Chương trình nghiên cứu CGIAR về chăn nuôi và thủy sản toàn cầu do Viện Nghiên cứu chăn nuôi quốc tế ở Kenya (ILRI) dẫn đầu. Chương trình này nhằm tăng tính sẵn có và khả năng chi trả cho thịt, sữa và thủy sản cho người tiêu dùng nghèo, đồng thời nâng cao thu nhập của các hộ gia đình sản xuất các mặt hàng này.
 
K.P. - Mard, Theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 1273

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD