Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  17
 Số lượt truy cập :  33458019
Than sinh học biến đổi đổi dòng chảy để cải tạo đất cát và đất sét
Thứ hai, 08-12-2014 | 08:04:16

Thông thường, những người làm vườn và nông dân bón than đá hoặc than sinh học cho đất để tăng sản lượng cây trồng và chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Giờ đây, một nghiên cứu mới của các nhà khoa học thuộc trường Đại học Rice và Đại học Colorado, Hoa Kỳ đã phát hiện thêm một lợi ích nữa của than sinh học, đó là khả năng giúp đất sét tiêu nước nhanh còn đất cát tiêu nước chậm. Nghiên cứu đã được công bố trực tuyến trên Tạp chí PLoS ONE, lần đầu tiên đã giải thích về sự bí ẩn này.

 

Trưởng nhóm nghiên cứu Rebecca Barnes, PGS. khoa học môi trường cho biết: "Việc tìm cách điều khiển chuyển động của nước trong đất bón than sinh học là quan trọng để giải thích những lợi ích thường xuyên được đề cập như duy trì chất dinh dưỡng, hấp thụ các bon và giảm phát thải khí nhà kính".

 

Than sinh học có thể được sản xuất từ ​​gỗ thải, phân bón hoặc lá cây và được sử dụng phổ biến sau khi các nghiên cứu khảo cổ học chứng tỏ việc bổ sung than sinh học cho đất vùng Amazon cách đây hơn 1.000 năm, vẫn đang cải thiện khả năng giữ nước và dưỡng chất của đất cằn ở vùng này cho đến ngày nay.

 

Các nghiên cứu trong thập kỷ qua nêu rõ việc cải tạo đất bằng than sinh học có thể tăng hoặc giảm lượng nước mà đất tích trữ, nhưng các chuyên gia khó lý giải tình trạng này, một phần do nhiều thí nghiệm thực địa cho kết quả trái ngược nhau.

 

Trong nghiên cứu mới, chuyên gia sinh địa hóa tại Đại học Rice đã tiến hành các thí nghiệm về khả năng giữ nước của ba loại đất: đất cát, đất sét và đất mặt, trong đó 2 loại đất được bổ sung than sinh học, còn 1 loại thì không. Than sinh học dùng trong các thí nghiệm, được sản xuất từ gỗ cây bụi ở bang Texas đáp ứng các tiêu chuẩn đề ra để đảm bảo các kết quả so sánh giữa các loại đất.

 

Chuyên gia địa hóa học Caroline Masiello nói: "Không phải tất cả than sinh học đều như nhau và một trong những bài học quan trọng rút ra từ các nghiên cứu gần đây là tính chất thủy văn của than sinh học có thể thay đổi lớn tùy theo nhiệt độ và thời gian trong lò phản ứng. Điều quan trọng là phải sử dụng công thức phù hợp cho than sinh học mà bạn muốn chế tạo và sự khác biệt đó có thể không dễ phát hiện”.

 

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng than sinh học và các vật liệu đất đơn giản, tương đối đồng nhất để so sánh các kết quả với các mô hình thủy văn thể hiện mối liên hệ giữa dòng chảy của nước với tính chất vật lý của đất như mật độ khối và độ xốp. Điều này giúp giải thích sự ngắt kết nối xuất hiện khi bổ sung than sinh học vào đất. Than sinh học nhẹ và có độ xốp cao. Khi bón than sinh học cho đất sét, đất sẽ có mật độ ít dày đặc hơn, nên khả năng dẫn nước tăng lên. Bổ sung than sinh học vào đất cát cũng làm cho mật độ của đất cát thưa hơn, vì thế, mọi người cho rằng đất sẽ tiêu nước nhanh hơn, nhưng trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng đất cát được cải tạo bằng than sinh học giữ nước lâu hơn.

 

Các tác giả nghiên cứu đưa ra giả thuyết cho rằng việc cải tạo cát bằng than sinh học có thể giúp lưu giữ nước lâu hơn là do có 2 dòng chảy của nước qua kết cấu giữa đất và than sinh học. Một con đường là giữa các hạt đất và than sinh học, còn con đường thứ hai là nước di chuyển qua chính than sinh học.

 

N.P.D - NASATI, theo Sciencedaily.

Trở lại      In      Số lần xem: 1605

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD