Việc giải mã thành công trình tự bộ gen của cây Amborella đã làm sáng tỏ về một sự kiện lớn trong lịch sử của sự sống trên Trái đất - nguồn gốc của tất cả các cây lương thực chính và tất cả các thực vật có hoa khác. Nghiên cứu giải đáp câu hỏi tại sao các loại hoa đột nhiên nở rộ trên trái đất hàng triệu năm trước.
Khí CO2 phát sinh được quan trắc trên một trang trại mía bằng cách sử dụng phương pháp dòng xoáy hiệp biến trên hai chu kỳ sinh trưởng, đại diện cho tái sinh mía gốc thứ hai và thứ ba thu hoạch bằng việc đốt gốc. Tổng trao đổi hệ sinh thái ròng (net ecosystem exchange-NEE) trong chu kỳ đầu tiên (từ vụ gốc thứ hai, dài 393 ngày) là -1964 ± 44 g C/m2; tổng năng suất của hệ sinh thái (gross ecosystem productivity-GEP) là 3612 ± 46 g C/m2.
Trong nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí PLOS ONE của Mỹ hôm 8/1, các nhà khoa học thuộc Đại học Reading, miền Nam nước Anh cảnh báo rằng nhiều nước châu Âu sẽ thiếu số lượng ong mật cần thiết để thụ phấn cho cây trồng do Liên minh châu Âu (EU) chuyển sang chính sách ưu tiên sử dụng năng lượng sinh học.
Hạn chế lượng calo tiêu thụ là 1 trong những cách đã được chứng minh để chống lão hoá. Mặc dù chưa ai rõ cơ chế đằng sau việc này nhưng việc hạn chế calo đã được chứng minh là kéo dài tuổi đời ở loài giun, men, ruồi, khỉ và một vài nghiên cứu đã chứng minh điều đó ở người.
Ở bò gen PIT1 có trọng lượng phân tử khoảng 33 kDa, nằm trên nhiễm sắc thể số 1 (BTA1) và ở giữa nằm giữa TGLA57 và RM95 bao gồm 6 exon mã hóa cho chuỗi polypeptide gồm 291 axit amin (Bodner và cs, 1988; Moody et al, 1995). cDNA của gen Pit-1 đã được phân tích trình tự trên nhiều loài khác nhau (Tatsumi và cs, 1992; Wong và cs, 1992; Yamada và cs, 1993).
Tiến bộ kỹ thuật (TBKT) quyết định tiềm năng chất lượng và sản lượng sản xuất nông nghiệp thông qua sự phát triển và cải tiến kỹ thuật. Nông dân là thành phần ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại sinh (cấu trúc cộng đồng, thể chế,...) và yếu tố nội sinh do nông hộ điều khiển. Nông dân là người quyết định có hay không tiếp nhận và áp dụng tiến bộ kỹ thuật và làm thế nào để sử dụng nguồn lực nhằm hỗ trợ chúng.
Do yêu cầu cấp bách về vấn đề bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khỏe con người và cộng đồng, cùng với yêu cầu về phát triển sản phẩm mới, thân thiện môi trường, đồng thời đáp ứng nhu cầu của thực tế công nghiệp và đời sống đặt ra, việc nghiên cứu chế tạo vật liệu xanh, sản phẩm sạch là vô cùng cần thiết. Một trong những sản phẩm như vậy là vật liệu bao bì tự phân hủy, dùng để chế tạo bầu ươm giống cây trồng và bao gói hàng thực phẩm.
M. Azim Ansari và Xavier Didelot thuộc Department of Infectious Disease Epidemiology, Imperial College London, Anh Quốc (xavier.didelot@gmail.com) đã công bố một công trình trên tạp chí Di Truyền ngày 1-1-2014 như sau: Các thành phần trong phân tích “linkage disequilibrium”, “homoplasy”, và khả năng không thể tiếp hợp (incompatibility) vô cùng khó khăn để giải thích theo di truyền học. Bởi vì, chúng phụ thuộc quá nhiều yếu tố, bao gồm sự kiện tái tổ hợp với cả một tiến trình và kiến trúc của quần thể. Ở đây, các tác giả nghiên cứu một mô phỏng mới dựa trên những đặc tính tái tổ hợp từ những bài toán thống kê đã được tóm lược lại trong bộ gen của vi khuẩn.
Nghiên cứu mới đây các nhà khoa học cho biết, nấm cộng sinh sống ở rễ thực vật có tác động lớn tới carbon khí quyển. Các vi nấm sống trong rễ cây đóng một vai trò quan trọng trong quá trình lưu giữ và giải phóng carbon từ đất vào khi quyển, theo nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Texas tại Austin, các đồng nghiệp tại trường đại học Boston và viện nghiên cứu Smithsonian Tropical Research Institute cho hay. Vai trò của những nấm này hiện chưa được tính toán đánh giá trong các mô hình khí hậu toàn cầu.
Nghiên cứu được tiến hành để xác định ảnh hưởng di truyền của QTL quy định tính trạng chịu nóng ở giai đoạn ra hoa của lúa trồng. Một quần thể lai tạo gồm 279 cá thể ở thế hệ F2 giữa giống lúa cho gene chịu nóng ký hiệu 996 và giống tái tục mẫn cảm ký hiệu 4628 được tạo ra để phân tích sự phân ly di truyền trong điều kiện nhiệt độ tối ưu và nhiệt độ cao.