Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  15
 Số lượt truy cập :  33354790
Triển vọng kháng bệnh Virus SCYLV trên cây mía bằng phương pháp GWAS
Thứ ba, 29-07-2014 | 08:28:44

S. Debibakas, S. Rocher, O. Garsmeur, L. Toubi, D. Roques, A. D’Hont, J.-Y. Hoarau, J. H. Daugrois

Tạp Chí Theoretical and Applied Genetics, August 2014 (on-line), Volume 127, Issue 8, pp 1719-1732

 

http://link.springer.com/article/10.1007/s00122-014-2334-7

Thông tin chính

Sử dụng phương pháp GWAS, người ta đã tìm thấy những chỉ thị phân tử độc lập liên quan đến tính kháng bệnh SCYLV của cây mía. Trên cơ sở genome học so sánh, nhiều gen ứng cử viên có tiềm năng đối với sự tương tác của virus/aphid/cây trồng được xác định.

Tóm Tắt

Bệnh vàng lá mía là một đối tượng gây hại do viru gây ra thuộc Polerovirus, bệnh có tên quốc tế là SCYLV được viết tắt từ chữ Sugarcane Yellow Leaf Virus do rầy mềm (aphids) là vec tơ truyền bệnh. Nhằm xác định QTLs (quantitative trait loci) kiểm soát tính kháng bệnh SCYLV, nhóm tác giả đã tiếp cận phương pháp mới GWAS (genome-wide association study) trên genome của một giống mía (n = 189) [gọi là panel] - đặc trưng của vật liệu bố mẹ trong chương trình chọn tạo giống. Panel này được phân tích “fingerprint” (đánh dấu DNA như đánh dấu vân tay) với 3.949 chỉ thị phân tử có tính đa hình (DArT AFLP). Panel này còn được đánh giá kiểu hình đối với triệu chứng gây bệnh SCYLV trên lá và thân mía trong hai thí nghiệm, trong hai chu kỳ trồng trọt (mía tơ và mía gốc), dưới điều kiện áp lực bệnh tự nhiên tại Guadeloupe. Các mô phỏng tuyến tính dạng phức hợp (Mixed linear models) bao gồm những co-factors đại diện cho kiến trúc quần thể được gắn với các ảnh hưởng xảy ra và giá trị pairwise kinship do các ảnh hưởng ngẫu nhiên, cho ra kết quả kiểm soát rất hiệu quả đối với rủi ro của sai số  kiểu “inflated type-I” ở mức độ toàn bộ genome (genome-wide level). Sáu chỉ thị phân tử độc lập được tìm thấy liên kết với gen kháng SCYLV thông qua kiểu hình kháng được ghi nhận trong thí nghiệm. Những markers ấy đã giải thích được từ 9 đến 14 % biến thiên kiểu hình sự kiện kháng bệnh trên panel của giống mía nghiên cứu. Tần suất của panel ấy tương đối thấp (8–20 %). Theo các tác giả, hai chỉ thị phân tử đã được tìm thấy có tính lập đi lập lại trong những phân tích GWAS trên cơ sở các thông số kháng bệnh khác nhau. Hai markers như vậy có thể được xác định trên genome cây cao lương Sorghum bicolor và là những gen ứng cử viên đầy tiềm năng trong tương tác giữa cây và aphid hoặc giữa cây và virus, gần nhau và biểu hiện tính chất tương đồng (homologs) giữa markers của cao lương và cây mía. Kết quả đã làm rõ hơn khả năng của phương pháp mới GWAS rất triển vọng trong nghiên cứu ngân hàng gen cây mía cũng như việc thẩm định gen kháng trong các chương trình chọn tạo giống.

 

Fig. 2  Các gen ở trong một vùng của genome cây cao lương (d = 100 kb) tương đồng với hai vùng trong genome cây mía được tìm thấy gắn với gen kháng SCYLV

 

Triệu chứng bệnh vàng lá mía do virus

 

Bùi Chí Bửu, IAS, lược dịch.

Trở lại      In      Số lần xem: 2082

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD