Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  12
 Số lượt truy cập :  33461272
Tuần tin khoa học 403 (27/10-02/11/2014)
Thứ hai, 27-10-2014 | 14:36:52

Xác định những QTLs đối với sản lượng hóa thảo mộc trong cây Arabidopsis

 

Scopoletinscopolin là những chất biến dưỡng thứ cấp quan trọng được tạo ra trong thực vật có chức năng bảo vệ cây chống lại những stress phi sinh học. Chúng thuộc về nhóm coumarins, là những chất hóa thảo mộc (phytochemicals) phổ biến được sử dụng làm thuốc và mỹ phẩm. Trong khi scopolin và scopoletin có trong rễ cây Arabidopsis thaliana, nhưng chưa ai biết được chúng biến thiên như thế nào trong những mẫu giống Arabidopsis khác nhau. Anna Ihnatowicz thuộc Đại Học Gdansk, Ba Lan đã nghiên cứu hàm lượng scopolin và scopoletin trong bảy mẫu giống (accessions) của chủng Arabidopsis.  Bản đồ QTL được hình thành và người ta tìm thấy một QTL liên quan đến scopolin và năm QTLs đối với sự tích tụ scopoletin. Những QTL được xác định như vậy đã giải thích được 13,86% và 37,60% biến thiên kiểu hình của scopolin và scopoletin, theo thứ tự. Phân tích in silico các gen, người ta phân lập được những gen ứng viên khác trong sinh tổng hợp coumarins. Kết quả cho thấy Arabidopsis là cây mô hình tuyệt vời trong nghiên cứu sinh tổng hợp coumarin của thực vật. Nó còn cho người ta biết được cơ sở để thực hiện kỹ thuật “fine mapping” và “cloning” của những gen ấy để mã hóa scopolin và scopoletin. Nhóm nghiên cứu này còn xác định được những loci mới cho tiến trình sinh tổng hợp nói trên.

 

Xem:  http://www.biomedcentral.com/content/pdf/s12870-014-0280-9.pdf

 

Hình 1 Cấu trúc hóa học của scopoletin và scopolin, những sản phẩm tổng hợp có liên quan

 

Vai trò của những phân tử RNAs nhỏ trong hình thành cây Brassica đa bội

 

 Lai tạo giữa những cây với nhau là phối hợp các genome khác nhau trong cùng một tế bào. Thuật ngữ “genome shock" và sự bất ổn được áp dụng khi chúng xảy ra của tiến trình lai. Sự gấp đôi số nhiễm sắc thể (doubling) tái cấu trúc cái gọi là “genome dosage” (lượng hóa bộ gen). Những nghiên cứu gấn đây cho thấy những phân tử RNA nhỏ (small RNAs) có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính chất ổn định của bộ gen (genome stability). Tuy nhiên, người ta biết rất ít về vai trò của phân tử “small RNA” như vậy trong khi lai và quá trình “chromosome doubling”. Do đó, Liping Chen và ctv. thuộc ĐH Zhejiang, trung Quốc đã nghiên cứu những thay đổi tiến trình methyl hóa DNA và thay đổi di truyền, cũng như thay đổi phân tử siRNA và miRNA trong hình thành allodiploidallotetraploid giữa loài Brassica rapa (hình trái) và Brassica nigra (hình phải). Sự thể hiện phân tử miRNAs tăng trong cây allodiploid và cây allotetraploid so với bố mẹ của chúng, trong khi đó, mức độ phân tử siRNAs của chúng cao hơn khi so với cây B. rapa nhưng thấp hơn khi so với B. nigra. Vì có sự gia tăng đa bội thể như vậy, nên mức độ của các phân tử miRNAs cũng tăng, cho thấy vai trò của nó trong điều hòa sự thể hiện gen. Mặt khác, mức độ phân tử siRNAs và sự thay đổi methyl hóa DNA giảm đi khi độ bội thể tăng, rồi trở nên ổn định hơn. Kết quả này có thể gợi ý rằng thông tin mới ấy giúp người ta hiểu biết những cây allotetraploids có hiệu quả tăng trưởng tốt hơn bố mẹ và cây allodiploids.

 

Xem: http://www.biomedcentral.com/content/pdf/s12870-014-0272-9.pdf.

 

Cứu những loài tuyệt chủng bằng kỹ thuật di truyền

 

 Các nhà di truyền học của Harvard, George Church đang nghiên cứu làm thế nào cứu được những loài sinh vật tuyệt chủng, voi mammoth, thông qua kỹ thuật di truyền (genetic engineering) trong đàn voi Châu Á, loài có quan hệ gần với voi mammoth hơn voi Châu Phi. Theo Church, điều này có thể được thực hiện trong điều kiện tăng tính trạng chống chịu độ lạnh của voi Châu Á. Chúng cần phải được cho thích nghi nhiều lần. Church lý giải rằng, "Các loài thích nghi đối với thế giới thay đổi này: đó là chúng có khả năng Genome Editing", ông khẳng định tầm quan trọng của công việc nghiên cứu ấy trên voi mammoth trong điều kiện kỷ nguyên băng hà (tundra), vô cùng quan trọng khi biến đổi khí hậu, đặc biệt là tích tụ khí methane trong tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu (permafrost). Bên cạnh công trình nghiên cứu voi mammoth, ông còn thảo luận đến tầm quan trọng của công nghệ sinh học đối với sức khỏe loài người với nhiều ví dụ về tiện ích của CNSH trong lĩnh vực nghiên cứu bệnh lý học.

 

Xem: http://news.harvard.edu/gazette/story/2014/10/behold-the-mammoth-maybe/.

 

Phân lập và đánh giá QTLs điều khiển tính kháng các loại hình HG của tuyến trùng gây sưng rễ đậu nành PI 437655

 

Nguồn: Yongqing Jiao, Tri D.Vuong, Yan Liu, Clinton Meinhardt, Yang Liu, Trupti Joshi, Perry Cregan, Dong Xu, J. Grover Shannon, Henry T. Nguyen. Tạp chí Theor. Appl. Genetics Publish on line 15 October 2014.

 

Nhóm tác giả đã hoàn thiện phân tích QTL đối với tính trạng kháng tuyến trùng sưng rễ đậu nành (SCN) của giống PI 437655 trong hai quần thể lập bản đồ. Người ta định tính CNV của Rhg1 thông qua giải trình tự lại toàn bộ genome (whole-genome resequencing) và đánh giá ảnh hưởng của việc chồng các QTL (pyramiding) đối với việc tăng cường tính kháng. Tuyền trùng gây sưng rễ đậu nành (SCN: soybean cyst nematode, Heterodera glycines Ichinohe) là một trong những dịch hại quan trọng của nhiều vùng đậu nành trên thế giới. Giống PI 437655 có phổ kháng rộng đối với các loại hình SCN HG hơn giống PI 88788. Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định QTL điều khiển tính kháng SCN của giống đậu nành PI 437655, và đánh giá QTL trong sự đóng góp vào tính kháng SCN ấy. Hai quần thể lập bản đồ F6:7 RILs, dẫn xuất từ tổ hợp lai Williams 82 × PI 437655 và  Hutcheson × PI 437655, được đanh giá tính kháng đối với loại hình sinh học SCN HG types 1.2.5.7 (PA2), 0 (PA3), 1.3.5.6.7 (PA14), và 1.2.3.4.5.6.7 (LY2). Array có 1.536 SNP được người ta sử dụng để đánh giá kiểu gen của hai quần thể lập bản đồ này và xây dựng nên bản đồ liên kết di truyền (genetic linkage maps). Hai QTL có ý nghĩa được tìm thấy trên nhiễm sắc thể 18 và 20 trong 2 quần thể. Một QTL trên nhiễm sắc thể (NST) 18, mà NST có locus Rhg1, góp phần vào tính kháng tuyến trùng loại hình SCN HG types 1.2.5.7, 0, 1.3.5.6.7, và 1.2.3.4.5.6.7 (PA2, PA3, PA14, và LY2, theo thứ tự). Phân tích biến thiên của số lần sao chép (CNV: Copy number variation) bởi kỹ thuật resequencing toàn bộ genome cho thấy rằng PI 437655PI 88788 có CNV giống nhau tại locus Rhg1. Chíng QTL trên NST 20 đóng góp phần lớn tính kháng các loại hình SCN HG 1.3.5.6.7 (PA14) và 1.2.3.4.5.6.7 (LY2). Đánh giá cả hai QTL cho thấy việc chồng gen Rhg1và QTL này trên NHS 20 đã cải tiến được một cách có ý nghĩa tính kháng đối với các loại hình SCN HG 1.3.5.6.7 (PA14) và 1.2.3.4.5.6.7 (LY2) trong cả hai quần thể nói trên. Đây là thông tin rất có ích để phát triển giống đậu nành PI 437655 như một nguồn giống cho (donor) tính kháng SCN của lai tạo giống đậu nành nhờ chỉ thị phân tử.

 

Xem http://download.springer.com/static/pdf/361/art%253A10.1007%252Fs00122-014-2409-5.pdf?auth66=1413671982_52982897227ac82f277e1c7550d62d25&ext=.pdf

 

Hình. 2  Biến thiên số lần sao chép của locus Rhg1 được phát hiện bởi CNV-seq software trong giống đậu nành PI 437655, PI 88788, và giống Hutcheson bằng cách sử dụng  phương pháp resequencing toàn bộ genome. Trục Y axis biểu trưng cho các tỷ số log2; trục X biểu trưng cho vị trí của genomesuốt nhiễm sắc thể 18 của genome tham chiếu trên giống  Williams 82. Quãng giữa hai hàng màu đen chỉ vùng có Rhg1. Màu đỏ là gradient biểu trưng cho giá trị P được tính theo mỗi tỷ số (với màu đính kèm trên hình).

Trở lại      In      Số lần xem: 1641

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD