Tuần tin khoa học 403 (27/10-02/11/2014)
Thứ hai, 27-10-2014 | 14:36:52
|
Xác định những QTLs đối với sản lượng hóa thảo mộc trong cây Arabidopsis
Scopoletin và scopolin là những chất biến dưỡng thứ cấp quan trọng được tạo ra trong thực vật có chức năng bảo vệ cây chống lại những stress phi sinh học. Chúng thuộc về nhóm coumarins, là những chất hóa thảo mộc (phytochemicals) phổ biến được sử dụng làm thuốc và mỹ phẩm. Trong khi scopolin và scopoletin có trong rễ cây Arabidopsis thaliana, nhưng chưa ai biết được chúng biến thiên như thế nào trong những mẫu giống Arabidopsis khác nhau. Anna Ihnatowicz thuộc Đại Học Gdansk, Ba Lan đã nghiên cứu hàm lượng scopolin và scopoletin trong bảy mẫu giống (accessions) của chủng Arabidopsis. Bản đồ QTL được hình thành và người ta tìm thấy một QTL liên quan đến scopolin và năm QTLs đối với sự tích tụ scopoletin. Những QTL được xác định như vậy đã giải thích được 13,86% và 37,60% biến thiên kiểu hình của scopolin và scopoletin, theo thứ tự. Phân tích in silico các gen, người ta phân lập được những gen ứng viên khác trong sinh tổng hợp coumarins. Kết quả cho thấy Arabidopsis là cây mô hình tuyệt vời trong nghiên cứu sinh tổng hợp coumarin của thực vật. Nó còn cho người ta biết được cơ sở để thực hiện kỹ thuật “fine mapping” và “cloning” của những gen ấy để mã hóa scopolin và scopoletin. Nhóm nghiên cứu này còn xác định được những loci mới cho tiến trình sinh tổng hợp nói trên.
Xem: http://www.biomedcentral.com/content/pdf/s12870-014-0280-9.pdf
Hình 1 Cấu trúc hóa học của scopoletin và scopolin, những sản phẩm tổng hợp có liên quan
Vai trò của những phân tử RNAs nhỏ trong hình thành cây Brassica đa bội
Lai tạo giữa những cây với nhau là phối hợp các genome khác nhau trong cùng một tế bào. Thuật ngữ “genome shock" và sự bất ổn được áp dụng khi chúng xảy ra của tiến trình lai. Sự gấp đôi số nhiễm sắc thể (doubling) tái cấu trúc cái gọi là “genome dosage” (lượng hóa bộ gen). Những nghiên cứu gấn đây cho thấy những phân tử RNA nhỏ (small RNAs) có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính chất ổn định của bộ gen (genome stability). Tuy nhiên, người ta biết rất ít về vai trò của phân tử “small RNA” như vậy trong khi lai và quá trình “chromosome doubling”. Do đó, Liping Chen và ctv. thuộc ĐH Zhejiang, trung Quốc đã nghiên cứu những thay đổi tiến trình methyl hóa DNA và thay đổi di truyền, cũng như thay đổi phân tử siRNA và miRNA trong hình thành allodiploid và allotetraploid giữa loài Brassica rapa (hình trái) và Brassica nigra (hình phải). Sự thể hiện phân tử miRNAs tăng trong cây allodiploid và cây allotetraploid so với bố mẹ của chúng, trong khi đó, mức độ phân tử siRNAs của chúng cao hơn khi so với cây B. rapa nhưng thấp hơn khi so với B. nigra. Vì có sự gia tăng đa bội thể như vậy, nên mức độ của các phân tử miRNAs cũng tăng, cho thấy vai trò của nó trong điều hòa sự thể hiện gen. Mặt khác, mức độ phân tử siRNAs và sự thay đổi methyl hóa DNA giảm đi khi độ bội thể tăng, rồi trở nên ổn định hơn. Kết quả này có thể gợi ý rằng thông tin mới ấy giúp người ta hiểu biết những cây allotetraploids có hiệu quả tăng trưởng tốt hơn bố mẹ và cây allodiploids.
Xem: http://www.biomedcentral.com/content/pdf/s12870-014-0272-9.pdf.
Cứu những loài tuyệt chủng bằng kỹ thuật di truyền
Các nhà di truyền học của Harvard, George Church đang nghiên cứu làm thế nào cứu được những loài sinh vật tuyệt chủng, voi mammoth, thông qua kỹ thuật di truyền (genetic engineering) trong đàn voi Châu Á, loài có quan hệ gần với voi mammoth hơn voi Châu Phi. Theo Church, điều này có thể được thực hiện trong điều kiện tăng tính trạng chống chịu độ lạnh của voi Châu Á. Chúng cần phải được cho thích nghi nhiều lần. Church lý giải rằng, "Các loài thích nghi đối với thế giới thay đổi này: đó là chúng có khả năng Genome Editing", ông khẳng định tầm quan trọng của công việc nghiên cứu ấy trên voi mammoth trong điều kiện kỷ nguyên băng hà (tundra), vô cùng quan trọng khi biến đổi khí hậu, đặc biệt là tích tụ khí methane trong tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu (permafrost). Bên cạnh công trình nghiên cứu voi mammoth, ông còn thảo luận đến tầm quan trọng của công nghệ sinh học đối với sức khỏe loài người với nhiều ví dụ về tiện ích của CNSH trong lĩnh vực nghiên cứu bệnh lý học.
Xem: http://news.harvard.edu/gazette/story/2014/10/behold-the-mammoth-maybe/.
Nguồn: Yongqing Jiao, Tri D.Vuong, Yan Liu, Clinton Meinhardt, Yang Liu, Trupti Joshi, Perry Cregan, Dong Xu, J. Grover Shannon, Henry T. Nguyen. Tạp chí Theor. Appl. Genetics Publish on line 15 October 2014.
Nhóm tác giả đã hoàn thiện phân tích QTL đối với tính trạng kháng tuyến trùng sưng rễ đậu nành (SCN) của giống PI 437655 trong hai quần thể lập bản đồ. Người ta định tính CNV của Rhg1 thông qua giải trình tự lại toàn bộ genome (whole-genome resequencing) và đánh giá ảnh hưởng của việc chồng các QTL (pyramiding) đối với việc tăng cường tính kháng. Tuyền trùng gây sưng rễ đậu nành (SCN: soybean cyst nematode, Heterodera glycines Ichinohe) là một trong những dịch hại quan trọng của nhiều vùng đậu nành trên thế giới. Giống PI 437655 có phổ kháng rộng đối với các loại hình SCN HG hơn giống PI 88788. Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định QTL điều khiển tính kháng SCN của giống đậu nành PI 437655, và đánh giá QTL trong sự đóng góp vào tính kháng SCN ấy. Hai quần thể lập bản đồ F6:7 RILs, dẫn xuất từ tổ hợp lai Williams 82 × PI 437655 và Hutcheson × PI 437655, được đanh giá tính kháng đối với loại hình sinh học SCN HG types 1.2.5.7 (PA2), 0 (PA3), 1.3.5.6.7 (PA14), và 1.2.3.4.5.6.7 (LY2). Array có 1.536 SNP được người ta sử dụng để đánh giá kiểu gen của hai quần thể lập bản đồ này và xây dựng nên bản đồ liên kết di truyền (genetic linkage maps). Hai QTL có ý nghĩa được tìm thấy trên nhiễm sắc thể 18 và 20 trong 2 quần thể. Một QTL trên nhiễm sắc thể (NST) 18, mà NST có locus Rhg1, góp phần vào tính kháng tuyến trùng loại hình SCN HG types 1.2.5.7, 0, 1.3.5.6.7, và 1.2.3.4.5.6.7 (PA2, PA3, PA14, và LY2, theo thứ tự). Phân tích biến thiên của số lần sao chép (CNV: Copy number variation) bởi kỹ thuật resequencing toàn bộ genome cho thấy rằng PI 437655 và PI 88788 có CNV giống nhau tại locus Rhg1. Chíng QTL trên NST 20 đóng góp phần lớn tính kháng các loại hình SCN HG 1.3.5.6.7 (PA14) và 1.2.3.4.5.6.7 (LY2). Đánh giá cả hai QTL cho thấy việc chồng gen Rhg1và QTL này trên NHS 20 đã cải tiến được một cách có ý nghĩa tính kháng đối với các loại hình SCN HG 1.3.5.6.7 (PA14) và 1.2.3.4.5.6.7 (LY2) trong cả hai quần thể nói trên. Đây là thông tin rất có ích để phát triển giống đậu nành PI 437655 như một nguồn giống cho (donor) tính kháng SCN của lai tạo giống đậu nành nhờ chỉ thị phân tử.
Hình. 2 Biến thiên số lần sao chép của locus Rhg1 được phát hiện bởi CNV-seq software trong giống đậu nành PI 437655, PI 88788, và giống Hutcheson bằng cách sử dụng phương pháp resequencing toàn bộ genome. Trục Y axis biểu trưng cho các tỷ số log2; trục X biểu trưng cho vị trí của genomesuốt nhiễm sắc thể 18 của genome tham chiếu trên giống Williams 82. Quãng giữa hai hàng màu đen chỉ vùng có Rhg1. Màu đỏ là gradient biểu trưng cho giá trị P được tính theo mỗi tỷ số (với màu đính kèm trên hình). |
Trở lại In Số lần xem: 1641 |
[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
|