Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  14
 Số lượt truy cập :  33459611
Tuần tin khoa học 409 (08-14/12/2014)
Thứ sáu, 05-12-2014 | 17:30:52

Cải tiến giống đậu Chickpea có hàm lượng sắt và kẽm cao

 

Đậu Chickpea (tên khoa học: Cicer arietinum) là một trong những loài cây trồng có mức tiêu thụ cao, đặc biệt tại các quốc gia phát triển. Cây trồng này có một dãy khá rộng proteins, carbohydrates, và vi chất dinh dưỡng. Do nhu cầu tiêu dùng, người ta chỉ quan tâm phát triển đậu chickpea có năng suất cao, kháng sâu bệnh hại và chống chịu stress phi sinh học. Nhu cầu của những nước đang phát triển cần phải cải tiến hàm lượng chất vi dinh dưỡng, trong đó, các nhà nghiên cứu thuộc “Trung Tâm Phát Triển Cây Trồng, Đại Học Saskatchewan đã thực hiện nội dung này. Họ sử dụng nhiều dòng di truyền khác nhau của cây đậu chickpea, tổng số 94 dòng trong nghiên cứu. Họ đã quan sát các biến dị và xác định các alen SNP có liên quan đến hàm lượng sắt và kẽm trong hạt đậu. Khám phá này cho thấy nguồn di truyền của cây đậu chickpea có một biến thiên đáng kể về hàm lượng sắt và kẽm, với tổng số tám “SNP alleles” liên quan. Đây là kết quả vô cùng cần thiết cho việc ứng dụng chọn tạo giống bằng phương pháp molecular breeding để cải thiệm hàm lượng dinh dưỡng hạt đậu chickpea tốt hơn về sắt và kẽm.

 

Xem: http://www.nrcresearchpress.com/doi/full/10.1139/gen-2014-0108?src=recsys#.VH0hlTGUdZ8

 

Nghiên cứu “Tri-trophic” cho thấy cây trồng Bt không độc đối với côn trùng là thiên địch, con Assassin Bug

 

 Cây trồng biến đổi gen Bt, như bắp và bông vải, được kiểm soát về rủi ro cho môi trường đối với động vật không chủ đích, là thiên địch của sâu hại, làm ức chế quần thể sâu hại mùa màng. Các nhà khoa học của ĐH Cornell là H.H. Su và ctv. đã sử dụng sâu Spodoptera frugiperda trên giống kháng Bt và sâu đo ký sinh trên cải bắp (cabbage looper: Trichoplusia ni) như mồi dẫn dụ con bọ assassin bug (Zelus renardii), một loài thiên địch trên ruộng bắp và ruộng bông vải. Nhiều thông số có tính chất “fitness” của bọ assassin bug được người ta đánh giá khi cho nó ăn sâu “fall armyworm” trên cây bắp Bt hoặc sâu đo cải bắp trên giống bông vải Bt. Kết quả là không khác biệt có ý nghĩa về mật số sống sót, thời gian hóa nhộng, khối lượng thân con trưởng thành, tuổi thọ, và khả năng sinh đẻ của con cái assassin bug khi cho nó ăn sâu phá hại bắp và bông trên ruộng trồng giống Bt và giống không có Bt. Các xét nghiện kháng thể cho thấy Bt proteins hiện diện ở mức độ cao nhất trong cây Bt, và thấp nhất trong con làm mồi, và thấp nhất trong con thiên địch ăn mồi. Theo đó, Bt proteins không ảnh hưởng gì đến các thông số “fitness” về sự sống của bọ assassin bug

 

Xem tóm tắt http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/jen.12184/abstract.

 

Ảnh hưởng của stress Ozone trên năng suất đậu nành

 

 Tropospheric ozone (O3) là một dạng khí gây hiệu ứng nhà kính có nồng độ đủ để làm giảm năng suất đậu nành (Glycine max L. Merr.) từ 6% đến 16%. Người ta muốn tìm hiểu cơ chế sự mất năng suất đậu nành như vậy, Elizabeth A Ainsworth và đồng nghiệp thuộc ĐH Illinois đã xem xét toàn bộ “transcriptome” của hoa đậu nành và các mô vỏ của quả đậu khi phơi nhiễm với O3 bằng phương pháp “RNA-sequencing”. Kết quả cho thấy có một phản ứng mạnh mẽ về thể hiện phân tử transcript ở hoa và mô võ quả đậu khi cho phơi nhiễm với stress “ozone”. Mô hoa đậu phản ứng với sự gia tăng O3 bằng cách tăng sự biểu hiện của các gen mã hóa MMP (matrix metalloproteinases). MMPs là những enzyme endopeptidases có trong lập trình tế bào chết, sự hóa già và phản ứng stress. Trong khi đó, các mô võ quả đậu phản ứng với sự gia tăng của O3 bằng cách tăng sự thể hiện gen điều khiển sự khai quả (nứt võ). Sự thể hiện gen này trong mô sinh dục đậu nành khi bị stress do ozone, các hoa đậu và võ quả đậu có phản ứng “transcriptomic” hết sức khác nhau.

 

Xem: http://www.biomedcentral.com/content/pdf/s12870-014-0335-y.pdf.

 

Button Mushroom (Agaricus bisporus) - cải tiến giống và bảo vệ thực vật

 

Nấm Agaricus bisporus được một nhóm nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứuthực vật của ĐH Wageningen UR Plant Breeding lập kế hoạch phát triển giống “button mushroom”. Nhiều năm qua, việc sáng tạo ra giống mới đã và đang được tiến hành bằng cách cải tiến và làm thay đổi một chút con lai đầu tiên của nấm. Sự cải tiến như vậy đã có một ít kết quả tác động lên phẩm chất nấm và năng suất “button mushroom”, hương vị thuần nhất và cách biểu hiện đồng đều, cũng như kháng được bệnh. Các nhà nghiên cứu của Wageningen đề nghị sử dụng các bào tử đơn, còn có thể sinh sản khi phát triển giống nấm mới. Áp dụng sự cải biên này trong chọn tạo giống nấm sẽ giúp người ta đưa vào thêm tính trạng mới từ chủng nòi (strain) hoang dã yêu cầu đầu tư ít hơn và thời gian ngắn hơn. Theo đó, các nhà nghiên cứu đã sáng tạo được một “position paper”  đánh giá sự kiện này như yêu cầu của công nghệ, cũng như sự trợ giúp để cải tiên và bảo vệ giống nấm trồng.

 

Xem: http://www.wageningenur.nl/en/newsarticle/New-button-mushroom-varieties-need-better-protection.htm

 

 

Consortium quốc tế về trình tự bộ gen của muỗi truyền bệnh sốt rét

 

 Các genomes của 16 loài muỗi Anopheles được thu thập từ nhiều vùng miền của thế giới đã được giải trình tự bởi một nhóm chuyên gia quốc tế dẫn đầu là Bà Giáo Sư Nora Besansky thuộc Đại Học Notre Dame. Muỗi Anopheles truyền ký sinh trùng sốt rét, gây ra cái chết cho hơn 600.000 người mỗi năm. Tuy nhiên,  chỉ có một ít trong số đó (khoảng 500 loài Anopheles khác nhau có thể mang được ký sinh trùng). Giáo Sư Besansky và đồng nghiệp của Bà xem xét sự khác biệt di truyền giữa lao2i mang ký sinh trùng gây chết và những loài họ hàng của chúng không gây hại. Các loài của Châu Phi, Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ La Tinh được sưu tập phục vụ nghiên cứu này. Sự tiến hóa về gen thông qua muỗi Anopheles cho thấy có sự thay đổi cao về “gene gain” và “gene loss”, khoảng gấp năm lần hơn so với ruồi đục quả. Một vài genes, ví dụ trong sinh sản, hoặc gen mã hóa proteins tiết ra trong tuyến nước bọt của muỗi, có mật độ cao các trình tự có tính chất tiến hóa và người ta thấy những “subsets” của các loài có quan hệ gần gủi. Những trình tự genome mới cho thấy một sự kiện minh chứng rằng có những mối liên hệ thực sự giữa nhiều loài liên quan đến Anopheles gambiae,  tuy thế, nó cho thấy có những tính trạng rất khác nhau ảnh hưởng đến khả năng mang ký sinh trùng.

 

Xem: http://news.nd.edu/news/54364-notre-dame-biologist-nora-besansky-leads-international-consortium-in-sequencing-the-genomes-of-malaria-carrying-mosquitoes/.

 

Thông Báo

 

Hội Nghị Genome động vật và thực vật

 

Hội nghị genome động vật và thực vật lần thứ XXIII (PAG XXIII) được tổ chức vào ngày 10-14 tháng Giêng, 2015 tại Town and Country Hotel, San Diego, CA, USA

 

Xem http://www.intlpag.org/2015/.

Trở lại      In      Số lần xem: 2242

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD