Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33462997
Tuần tin khoa học 434 (01-08/06/2015)
Chủ nhật, 31-05-2015 | 05:56:44

Kỹ thuật tách chiết RNA cải tiến để có mẫu RNA chất lượng tốt

 

Một nhóm các nhà khoa học thuộc ĐH Florida, dẫn đầu là Ingrid E. Jordan-Thaden đã phát triển thành công một kỹ thuật tách chiết RNA của mốt số giống cây trồng. Mục đích của họ là có được mẫu RNA chất lượng cao từ những cây có hợp chất hóa học rất phức tạp thông qua một phương pháp ly trích RNA nhanh, hiệu quả, đáng tin cậy. Trong nghiên cứu này, họ đề xuất 3 phương pháp tách chiết RNA, bao gồm việc sử dụng TRIzol với dung môi sarkosyl, thêm vào đó là cetyltrimetyhlammonium bromide (CTAB) trong TRIZol có sarkosyl và sự phối hợp CTABQIAGEN RNeasy Plant Mini Kit. Phương pháp này được áp dụng trên 91 loài cây trồng bao gồm cây cho gỗ, cây có mùi thơm, và cây thủy sinh. Kết quả cho thấy TRIzolsarkosyl là phương pháp hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất trong tách chiết RNA chất lượng cao. Đây là kỹ thuật rất tốt phục vụ giải trình tự các gen năng động của cây hoặc transcriptome.

 

Hình: Tiến trình lập lại để thu nhận RNA đạt chất lượng và số lượng cao theo Option 1 và Option 2. (Option 3 không được khuyến cáo)

 

Xem BioOne Online Journal.  

 

 

Công cụ di truyền làm biến tính phân tử DNA mục tiêu khi phát triển GMO

 

Characterization of the DNAi device.Các nhà khoa học của Massachusetts Institute of Technology, bao gồm Brian J. CaliandoChristopher A. Voigt đã phát triển một công cụ mật mã di truyền dựa trên nguyên tắc hệ thống CRISPR, phân tử DNAi, có khả năng đáp ứng với sự kiện “transcriptional input” và làm thoái hóa phân tử DNA đặc hiệu nào đó. Điều này cho phép những lĩnh vực liên quan đến kỹ thuật di truyền để được che giấu đi khi tế bào đi vào một môi trường mới. Trong hệ thống CRISPR, sự suy thoái nhanh của DNA được “engineered” (được thao tác kỹ thuật di truyền), hoặc làm tế bào chết rất nhanh xảy ra khi nó ghi nhận có một phân tử DNA plasmid mục tiêu hoặc một genome mục tiêu. Ý tưởng ghi nhận hoặc làm biến tính được áp dụng đối với phân tử DNAi cho phép các sinh vật GMOs che giấu hoặc làm thoái hóa phân tử DNA được thao tác công nghệ di truyền của nó (engineered DNA). Điều này sẽ giúp cho việc ngăn ngừa sự kiện phóng thích phân tử GM DNA vào môi trường sống của chúng ta.

Hình: Đặc điểm của DNAi device

 

Xem Nature Communications.

 

 

NAST Philippines thảo luận về CNSH trong dinh dưỡng gia súc

 

NAST Philippines (National Academy of Science and Technology of the Philippines) tổ chức một thảo luận bàn tròn về Công Nghệ Sinh Học trong dinh dưỡng gia súc (Livestock Nutritional Biotechnology: Pre and Probiotics in Food Animals) vào ngày 11-5-2015 tại Hotel Jen, Pasay City, Manila. Họ tập trung thảo luận những nguy cơ cho người tiêu dùng xét về lâu dài đối với thịt và các sản phẩm của thịt có tồn dư thuốc kháng sinh đã được sử dụng trong thức ăn gia súc. Dr. January M. Nones, quan chức của phòng thí nghiệm thuộc National Meat Inspection Service's (NMIS), cho biết hiện trạng của việc sử dụng thuốc kháng sinh và kết quả điều tra sự kiện tồn dư thuốc kháng sinh ở Philippines. Bà giới thiệu một chương trình có tên là National Veterinary Drug Residue Monitoring Program, chương trình đã sử dụng kỹ thuật MIT (Microbial Inhibition Test) và kỹ thuật ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay) như những phương pháp xét nghiệm chính. Tuy nhiên, các hạn chế vẫn còn đặt ra như kinh phí hạn chế và nguồn nhân lực hạn chế, trang thiết thị xét nghiệm rất đắt tiền. NMIS đang hướng về hoạt động của các viện nghiên cứu và sự tăng cường mọi nỗ lực trong chương trình này; năm tời người ta sẽ tập trung nội dung phát triển phương pháp cũng như tăng cường các điều lệ mang tính chất luật pháp và chính sách.

 

Xem SEARCA Biotechnology Information Center's website.

 

 

Xác định gen giới tính của muỗi gây bệnh sốt xuất huyết (Dengue Fever)

 

Các nhà khoa học thuộc Fralin Life Science Institute, Virginia Tech, đã phân lập được một gen có chức năng xác định giới tính của muỗi truyền bệnh “yellow fever”, sốt xuất huyết, và bệnh do chikungunya viruses. Họ xác định được chìa khóa di truyền khẳng định giới tính đực được gọi là Nix trong con muỗi Aedes aegypti nhằm phân định con đực và con cái. Những chìa khóa như vậy được gọi là master switches thường định vị trên những cái gọi là genomic black holes. Chỉ có muỗi cái chích hút máu người vì nó cần hồng cầu để phát triển trứng. Nhà nghiên cứu tin tưởng rằng tỷ lệ cao của muỗi đực có thể làm giảm đi áp lực của bệnh. Nghiên cứu này phát triển một chiến lược biến đổi muỗi cái thành muỗi đực vô hại hoa85cla2m giảm có chọn lọc con cái chết. Zhijian Jake Tu, Giào Sư của Virginia Tech và đồng sự thuộc Fralin Life Science Institute, cho rằng "Nix cung cấp cho chúng ta với những cơ hội khá thú vị kiểm soát theo ý muốn giới tính của muỗi trong cuộc chiến chống lại bệnh tật do muỗi truyền bệnh".

 

Xem Virginia Tech website.

Trở lại      In      Số lần xem: 1206

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD