Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  25
 Số lượt truy cập :  33269415
Chính phủ có thể kiểm soát việc sử dụng phân bón
Thứ ba, 24-11-2020 | 08:43:43

Phân đạm giúp tăng năng suất cây trồng, được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp. (Ảnh: Adobe Stock).

 

Nitơ có mặt khắp nơi trên thế giới. Trong nông nghiệp, nitơ được sử dụng làm phân bón để tăng sản lượng, điều này gây ra một số vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm nitơ tác động xấu đến nước và đất, đồng thời có hại cho sức khỏe con người và động vật. Hơn nữa, không khí hoặc mưa mang nitơ vào môi trường sống, chẳng hạn như đầm lầy hoặc rừng, từ đó làm suy giảm sự đa dạng sinh học.

 

Chính phủ các nước có năng lực hạn chế được vấn đề này. Điều cần thiết là các chính sách quốc gia và quốc tế hướng hệ thống lương thực toàn cầu đến sản lượng cao hơn và môi trường ít bị tác động hơn. Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu hầu như không đề cập đến mức độ chi phối của các quốc gia đến vấn đề ô nhiễm nitơ và năng suất cây trồng.

 

Đánh giá tác động chung của các quốc gia

 

Giờ đây, các nhà nghiên cứu thuộc ETH như David Wüpper và Robert Finger, Chủ tịch Kinh tế và Chính sách Nông nghiệp đã hợp tác với nhiều nhà khoa học để đánh giá tác động tổng thể của quốc gia trên thế giới đối với ô nhiễm nitơ và năng suất cây trồng. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Nature Food.

 

Trong ấn phẩm này, cho thấy các quốc gia có tác động rất lớn đến mức độ ô nhiễm nitơ. Trên thực tế, các quốc gia quan tâm đặc biệt đến vấn đề ô nhiễm môi trường nhiều hơn so với vấn đề năng suất cây trồng.

 

Hạn chế sử dụng nhưng không ảnh hưởng đến năng suất

 

Ở nhiều quốc gia, việc sử dụng nhiều phân đạm chỉ làm giảm khoảng cách giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế đạt được. Nhìn chung, khi các quốc gia cố gắng thu hẹp khoảng cách sản lượng 1%, điều này làm gia tăng ô nhiễm nitơ tương ứng 35% ở quy mô toàn cầu. Nói cách khác, hiệu quả sử dụng phân bón rất thấp khi gia tăng sử dụng phân bón. Từ đó các nhà nghiên cứu cho rằng việc hạn chế sử dụng phân bón có thể không làm giảm năng suất cây trồng.

 

Các nhà khoa học cũng xác định các yếu tố để giải thích việc sử dụng và ô nhiễm nitơ liên quan đến năng suất cây trồng. Ví dụ, các yếu tố chính bao gồm không chỉ năng lực tổ chức, mức độ phát triển kinh tế và quy mô dân số, mà còn là tỷ trọng nông nghiệp trong tổng thể nền kinh tế đất nước.

 

Một yếu tố chính khác ảnh hưởng đến ô nhiễm nitơ là các khoản trợ cấp trực tiếp của nhà nước để giảm chi phí phân bón nitơ. Tuy nhiên, trợ cấp và chính sách ảnh hưởng gián tiếp đến giá nông sản liên quan đến chi phí phân bón. Bên cạnh đó những quy định pháp luật, đào tạo nông dân, công nghệ và thậm chí cả cơ cấu thương mại cũng đóng vai trò quan trọng chi phối giá nông sản.

 

Đánh giá dữ liệu sản lượng và nitơ toàn cầu

 

Một ví dụ cho thấy mức độ ảnh hưởng của quốc gia đến vấn đề ô nhiễm nitơ xảy ra ở biên giới giữa Kazakhstan và Trung Quốc, một khu vực khô hạn với thảm thực vật thưa thớt. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy thảm thực vật phía Trung Quốc rất tươi tốt, trong khi thảm thực vật phía bên Kazakhstan phát triển rất kém. Điều này cho thấy phía Trung Quốc có đầu tư hệ thống tưới tiêu và cung cấp phân đạm.

 

Biên giới Trung Quốc-Kazakhstan chụp từ vệ tinh: Biên giới giữa hai nước được xác định bởi chính sách sử dụng đất. (Ảnh: Đài quan sát Trái đất Nasa).

 

Wüpper, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Sự khác biệt rõ rệt trong thảm thực vật không thể là một hiện tượng tự nhiên. Ông giải thích: “Ví dụ này minh họa rằng quốc gia nơi có các cánh đồng là yếu tố quyết định đến năng suất và ô nhiễm nitơ. “Tuy nhiên, Trung Quốc có thể đạt được sản lượng tương tự với mức độ ô nhiễm nitơ ít hơn đáng kể”.

 

Giống như các nước châu Âu khác, Thụy sĩ là quốc gia vẫn tiếp tục sử dụng bón phân đạm với khối lượng rất lớn khiến cây trồng không thể hấp thụ hết. Phần thặng dư sẽ chảy vào suối, hồ và các hệ sinh thái khác.

 

Wüpper cho biết: “Thụy Sĩ có nền nông nghiệp thâm canh cao. Ông giải thích rằng điều này có tác động trực tiếp đến ô nhiễm nitơ. Bên cạnh đó, lượng phân gia súc thải ra cũng góp phần làm tăng mức độ ô nhiễm nitơ.

 

Các công cụ kinh tế chọn lựa làm chính sách

 

Các nhà nghiên cứu tổng kết rằng: “Nhìn chung, có sự mất cân bằng trong việc phân phối các nguồn phân bón trên toàn cầu. Tại Thụy Sĩ nguồn cung vượt quá cầu, trong khi các khu vực khác trên thế giới lại không đủ. Ví dụ, ở một số vùng châu Phi cận Sahara, nông dân sử dụng rất ít phân đạm. Tuy nhiên, nếu họ chỉ tăng cường sử dụng thêm một ít lượng phân đạm, thì năng suất có thể tăng một cách đáng kể. Giảm thiểu sự mất cân bằng phân bón toàn cầu sẽ giúp tăng sản lượng và giảm ô nhiễm môi trường một cách đáng kể.

 

Để đạt được điều này cần điều chỉnh chi phí phân bón nitơ. Ở những nước sử dụng quá nhiều phân đạm, cần tăng chi phí phân đạm lên, ví dụ: tăng thuế phân đạm, hoặc áp dụng một số công cụ và điều chỉnh chính sách. Ngược lại, ở những nước sử dụng quá ít phân đạm, cần giảm giá phân đạm, ví dụ: trợ cấp giá phân đạm hoặc áp dụng một số công cụ và điều chỉnh chính sách khác.

 

Một cách tiếp cận khác liên quan đến những thay đổi trên chính trang trại của họ. Chính phủ và ngành công nghiệp có thể khuyến khích nông dân sản xuất cây trồng thân thiện với môi trường. Ví dụ, cải thiện quy trình sản xuất làm tăng hiệu quả sử dụng đạm. Hơn nữa, khuyến khích nông dân sử dụng ít đạm hơn và do đó khi năng suất giảm họ có thể nhận được khoản bồi thường tài chính từ nhà nước.

 

Tiềm năng lớn trong canh tác chính xác

 

Các kỹ thuật mới có thể làm tăng hiệu quả sử dụng đạm. “Chúng ta đang nói về cái được gọi là nông nghiệp chính xác, một khái niệm trong đó phân bón chỉ được bón ở những nơi thực sự cần thiết. Điều này có thể làm tăng hiệu quả sử dụng và giảm thiểu các vấn đề môi trường mà không làm giảm sản lượng”, Finger giải thích.

 

“Nhưng việc tiêu thụ cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn”, Wüpper nói thêm. Ông chỉ ra rằng một phần ba tổng số thực phẩm được sản xuất trở thành chất thải, làm gia tăng ô nhiễm nitơ và hủy hoại môi trường. Ông nói: “Nếu chúng ta cắt giảm chất thải từ thực phẩm, chúng ta cũng giảm thiểu các vấn đề ô nhiễm môi trường. Chế độ ăn giảm thịt cũng giúp cắt giảm lượng phân bón dư thừa, bởi vì nếu nông dân sản xuất ít thịt hơn, khi đó lượng phân thải ra ruộng sẽ ít hơn.

 

Nguyễn Bình Duy theo ETH Zurich.

Trở lại      In      Số lần xem: 446

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD