Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  23
 Số lượt truy cập :  33275192
MEN “HISTONE DEACETYLASE” Điều khiển thay đổi kiểu hình “Công cụ tấn công” của bọ cánh cứng
Thứ hai, 02-01-2017 | 06:13:09

Nguồn: Takane Ozawa, Tomoko Mizuhara, Masataka Arata, Masakazu Shimada, Teruyuki Niimi, Kensuke Okada, Yasukazu Okada, and Kunihiro Ohta. 2016. Histone deacetylases control module-specific phenotypic plasticity in beetle weapons. PNAS December 27 2016; vol.113; no.52: 15042–15047

CHUYÊN ĐỀ DI TRUYỀN BIỂU SINH (EPIGENETICS)

Ý NGHĨA KHOA HỌC

Điều kiện dinh dưỡng trong thờ kỳ đầu của phát triển ảnh hưởng đến biểu hiện rất linh hoạt của những kiểu hình con bọ trưởng thành. Vì tính mẫn cảm về dinh dưỡng cao như vậy, cho nên sự thay đổi tính trạng trong giai đoạn phát triển rất phong phú, chúng ta nên hiểu biết những cơ chế biến dưỡng làm cho biến dị di truyền này hết sức đặc biệt. Trong nghiên cứu của các tác giả công trình khoa học này, người ta nhấn mạnh đến cơ chế phân tử trong biểu hiện “hàm dưới” (mandibles) của bọ cánh cứng Gnatocerus cornutus  nhạy cảm như thế nào đối với dinh dưỡng. Người ta nhận thấy rằng: những regulators có tính chất di truyền biểu sinh, ví dụ như men “histone deacetylases” (HDACs) và các protein thuộc “polycomb group” (PcG), góp phần đáng kể vào tính chất co dản của thể hiện kiểu hình “hàm dưới” của bọ cánh cứng đực, và đóng góp rất ít đối với những tính trạng khác trên cơ thể côn trùng. Hơn nữa, sự xáo trộn của HDAC1 và HDAC3 có những ảnh hưởng ngược lại trên kiểu hình “hàm dưới” và cánh côn trùng. Kết quả này minh chứng ở mức độ phân tử có một liên kết giữa những cải biên rất khác nhau trong di truyền biểu sinh và sự linh hoạt vô cùng đặc biệt trong biểu hiện kiểu hình của tính trạng một cách quá mức.

TÓM TẮT

Điều kiện dinh dưỡng trong thời gian đầu của phát triển ản hưởng đến sự thể hiện rất linh hoạt của kiểu hình những côn trùng trưởng thành. Trong các đặc điểm của thân thể động vật, sự phát triển những tính trạng được chọn lọc quá mức về giới tính thường rất nhạy cảm với dinh dưỡng, ngần ấy làm cho tương quan sinh trưởng trở nên tích cực (positive allometry) và biến dị di truyền trở nên cực nhạy trong nhiều tính trạng khác nhau. Sử dụng kỹ thuật “de novo RNA sequencing” và kỹ thuật RNA can thiệp (RNAi) đối với những yếu tố cải biên có tính chất di truyền biểu sinh, người ta thấy rằng men “histone deacetylases” (HDACs) và protein thuộc “polycomb group” (PcG) ảnh hưởng có chọn lọc kích cỡ của hàm dưới (mandibles) – một vũ khí của con đực có tính chất thái quá (exaggerated male weapon). Kết quả chứng minh rằng siêu biến dị do dinh dưỡng này trong bọ cánh cứng có sừng, phá hại bột lúa mì, tên khoa học là Gnatocerus cornutus.Áp dụng kỹ thuật knockdown trong di truyền bằng phân từ RNA can thiệp HDAC1 (KD) trên ấu trùng con G. cornutus cho thấy: có sự rút ngắn hết sức đặc biệt hàm dưới của con trưởng thành, trong khi đó HDAC3 KD làm cho phình to ra (hypertrophy). Những KDs này có ảnh hưởng ngược lại đối với tính trạng kích cỡ của đôi cánh, nhưng ít ảnh hưởng trên thân hình chủ đạo của côn trùng và cơ quan sinh dục. Kỹ thuật phân tử can thiệp PcG RNAi còn làm giảm kích cỡ của hàm dưới con trưởng thành. Kết quả còn cho thấy sự phát triển hết sức linh hoạt ấy của tính trạng thái quá được kiểm soát bởi HDACs rất chuyên biệt.

 

Xem: http://www.pnas.org/content/113/52/15042.abstract.html?etoc

 

GS. Bùi Chí Bửu lược dịch.

Trở lại      In      Số lần xem: 2214

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD