Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  23
 Số lượt truy cập :  33273841
Sản xuất thử hai giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29 cho vùng Tây nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long
Thứ năm, 20-12-2018 | 08:03:20

Đậu tương {Glycine max (L.) Merrill}, hay còn gọi đậu nành là một trong những cây trồng quan trọng, phổ biến để cung cấp dầu thực vật, thực phẩm chức năng và nguồn nguyên liệu thức ăn cho gia súc (Khan et al., 2004). Đây cũng là cây trồng có tác dụng trong việc luân, xen canh, cải tạo đất rất hiệu quả. Trong thời gian gần đây, diện tích đậu tương trong nước bị sút giảm nghiêm trọng, mặc dù Bộ Nông nghiệp và PTNT có nhiều chủ trương để phát triển cây trồng này. Năm 2015, diện tích đậu tương Việt Nam chỉ đạt 100,8 ngàn ha, năng suất 1,45 tấn/ha, sản lượng 146 ngàn tấn; so với năm 2010 diện tích gieo trồng cả nước bị giảm gần 97 ngàn ha, sản lượng giảm 152,6 ngàn tấn (Bộ NN và PTNT, 2015). Với số liệu này thì chỉ đạt 25% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra trước đây cho năm 2010 (400 ngàn ha) và khó đạt chỉ tiêu kế hoạch đến 2020 (500 ngàn ha). Dự đoán diện tích gieo trồng sẽ tiếp tục giảm nữa nếu không có giải pháp phù hợp.


Trong bối cảnh cạnh tranh lúa gạo của thị trường Châu Á, cùng với sự tự túc lương thực của một số quốc gia trước đây đã nhập khẩu lúa của Việt Nam đã làm hạn chế kim ngạch xuất khẩu, hệ quả đã gây tồn đọng lượng lúa gạo rất lớn trong sản xuất. Sản xuất lúa kém hiệu quả trong thời gian qua, không chỉ xãy ra ở ĐBSCL mà còn ảnh hưởng đến các vùng sản xuất lúa gạo khác trên cả nước trong đó có Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Diện tích đậu tương giảm, sức mua giống của dân cũng có giới hạn, nên hầu hết doanh nghiệp phân phối hạt giống không kinh doanh giống đậu tương, người dân phải tự sản xuất, giữ giống để tái sản xuất cho kế hoạch canh tác của gia đình.

Hai giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29 sau quá trình nghiên cứu đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận cho phép sản xuất thử cho vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ và ĐBSCL tại Quyết định 333/QĐ-TT-CCN ngày 05/8/2013. Để minh chứng cho tiến bộ kỹ thuật mới, việc sản xuất thử trên diện rộng là vấn đề cần thiết. Vì vậy, việc ứng dụng các giống đậu tương mới, năng suất cao, phù hợp sinh thái, tạo nguồn giống tốt tại địa phương, sản xuất giống tại chỗ, luân chuyển giống đến vùng khác, giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất cây trồng cạn và trên vùng đất lúa kém hiệu quả, tiến đến xây dựng vùng nguyên liệu, góp phần mở rộng diện tích, định hướng sản phẩm, xác định thị trường tiêu thụ, sản xuất có hiệu quả là nhiệm vụ cần thiết trong xu hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp hiện nay.

Cơ quan chủ trì Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam đã phối hợp cùng Chủ nhiệm dự án ThS. Nguyễn Văn Chương cùng thực hiện đề tài “Sản xuất thử hai giống đậu tương hl07-15 và hlđn 29 cho vùng Tây nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long” nhằm mục tiêu tạo được nguồn giống có chất lượng để luân chuyển đến những vùng khác trong những mùa vụ kế tiếp theo tập quán sản xuất, góp phần mở rộng diện tích đậu tương ở các vùng sản xuất trọng điểm, chuyển đổi cơ cấu trên đất lúa kém hiệu quả để gia tăng sản lượng, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, giảm áp lực nhập khẩu.

Sau 2 năm thực hiện dự án “Sản xuất thử hai giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29 cho vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long”, kết quả đã đạt được:

- Đã sản xuất được 129,95 tấn hạt giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29, trong đó: Giống siêu nguyên chủng 1,05 tấn (vượt 50 kg so với kế hoạch); Giống nguyên chủng: 20,4 tấn (vượt 0,4 tấn so với kế hoạch); Giống xác nhận: 108,5 tấn (vượt 8,5 tấn so với kế hoạch).

- Kết quả hoàn thiện biện pháp kỹ thuật đã xác định: Đối với giống đậu tương HL07-15, mật độ trồng và nền phân thích hợp: tại Tây Nguyên, 33 cây/m2, lượng phân 70N + 60P2O5 + 60K2O (tương đương 152 kg Urea + 375 kg Super Lân + 100 kg KCl) hoặc mật độ 40 cây/m2 với lượng phân 60N + 60P2O + 60K2O (130 kg Urea + 375 kg Super Lân + 100 kg KCl). Tại Đông Nam Bộ, 38 cây/m2, lượng phân 60N + 60P2O5 + 60K2O. Tại ĐBSCL, mô hình luân canh sau vụ lúa Đông Xuân, sạ 80 kg/ha, lượng phân 70N + 60P2O5 + 60K2O; Đối với giống HLĐN 29, mật độ trồng và nền phân thích hợp: Tại Tây Nguyên, 33 cây/m2, lượng phân 70N + 60P2O5 + 60K2O. Tại Đông Nam Bộ, 40 cây/m2, lượng phân 60N + 60P2O5 + 60K2O. Tại Đồng bằng Sông Cửu Long, mô hình luân canh đậu tương sau vụ lúa Đông Xuân sạ 80 kg giống/ha lượng phân 60N + 60P2O5 + 60K2O.

- Đã xây dựng và hoàn thiện 02 Quy trình kỹ thuật: 01 Quy trình sản xuất hạt giống đậu tương cấp siêu nguyên chủng, nguyên chủng và xác nhận của 2 giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29; 01 Quy trình thâm canh của 2 giống đậu tương HL07-15, HLĐN 29 phù hợp với 3 vùng sinh thái Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.

- Đã xây dựng được 10 mô hình trình diễn trên 7 tỉnh của 3 vùng sinh thái: 05 mô hình sản xuất giống đậu tương HL07-15, quy mô 100 ha, giống có năng suất bình quân đạt từ 2,1 - 2,2 tấn/ha, vượt từ 12 - 18% so với giống đối chứng địa phương; 05 mô hình sản xuất giống đậu tương HLĐN 29, quy mô 100 ha, năng suất bình quân đạt từ 2,5 - 3 tấn/ha, vượt từ 15 - 20% so với giống đối chứng tại địa phương. Với giá đậu tương hạt tại thời điểm từ 13.000 - 15.000đ, sản xuất đậu tương sẽ có lợi nhuận biến động từ 12 - 25 triệu đồng/ha, vượt so với tập quán địa phương từ 3,5 đến 7 triệu đồng/ha.

- Đã đào tạo và tập huấn quy trình kỹ thuật sản xuất hạt giống và quy trình kỹ thuật thâm canh đậu tương cho 200 cán bộ khuyến nông và người sản xuất. Đã tổ chức 06 hội thảo đầu bờ đánh giá giống mới và đánh giá hiệu quả mô hình chuyển đổi sau lúa. Hầu hết cán bộ khuyến nông và nông hộ đều nắm bắt được kỹ thuật cần thiết, duy trì được năng lực nội sinh cho địa phương.

Đã đăng tải, giới thiệu hoàn thiện biện pháp kỹ thuật cho hai giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29 cho vùng Tây Nguyên, ĐNB và ĐBSCL trên Tạp chí Khoa học Công nghệ Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam số 12 (73)/2016.

- Hai giống đậu tương HL07-15 và HLĐN 29 đã thông qua Hội đồng nghiệm thu cấp cơ sở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, hiện đang chờ thủ tục Hội đồng Khoa học Công nghệ Cục Trồng Trọt để báo cáo xin công nhận chính thức.


- Kết quả của dự án đã được hầu hết nông dân, địa phương chấp nhận và khuyến khích mở rộng. Hầu hết nguồn giống thu hoạch được đều do bà con nông dân tự quản lý, tự nguyện tái sản xuất, chính quyền địa phương quản lý phân phối tại chỗ và các địa bàn khác khi đạt được sự thỏa thuận. Sản lượng hai giống đậu tương HL 07-15 và HLĐN 29 từ dự án, ước tính hiện nay đã phát triển được hơn 500 ha tại Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nguồn giống của cây trồng tự thụ phấn, được kết hợp bởi nguồn gen tốt, là sản phẩm không chuyển gen. Trên cơ sở quy trình sản xuất hạt giống các cấp và quy trình kỹ thuật canh tác áp dụng cho 3 vùng sinh thái được chuyển giao, địa phương và người sản xuất có thể tái tạo nguồn giống để sản xuất tạo vùng nguyên liệu đậu tương không chuyển gen, các doanh nghiệp có thể yên tâm sử dụng để tạo các sản phẩm trung gian cho thị trường.
 

Đ.T.V - NASATI.
Trở lại      In      Số lần xem: 983

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD