Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  26
 Số lượt truy cập :  33270847
Sử dụng SNP và haplotypes để xác định vùng giả định của gen của hạt đậu nành
Thứ sáu, 12-09-2014 | 08:04:16

TÓM TẮT

 

Thông tin chính

 

Sử dụng SNP (single nucleotide polymorphisms) và haplotypes để xác định vùng giả định của gen mã hóa hàm lượng protein (PC) và protein hòa tan trong nước (SPC) của hạt đậu nành

 

Có bốn loci mã hóa protein “SPC-specific”(hàm lượng protein tan trong nước đặc biệt) đã được xác định, giải thích được 8,5–15,1 % biến thiến kiểu hình, và lý giải tại sao giống đậu nành có hàm lượng PC cao thì SPC thấp.

 

Hàm lượng protein tan trong nước (SPC: water-soluble protein content) là một yếu tố vô cùng cần thiết cho cả hai mục đích: phẩm chất thức ăn và sản lượng của protein đậu nành được xác định. Tuy nhiên, có rất ít số liệu về bản chất di truyền và cơ chế biến dưỡng làm sao gia tăng được SPC. Trong thí nghiệm này, người ta sử dụng tập đoàn đậu nành gốm có 192 mẫu giống có nguồn gốc địa lý khá rộng để xác định vùng nào trong genome cây đậu nành liên quan đến hàm lượng protein (PC: protein content) và hàm lượng protein hòa tan trong nước (SPC) thông qua cách tiếp cận với phương pháp “association mapping”, với 1.536 SNP makers và 232 haplotypes. Biến thiên di truyền của PC và SPC rất lớn thông qua kết quả “diverse panel”. Kết quả phân tích “association mapping” với ba phương pháp thông dụng nhằm giảm thiểu tối đa tác động của những kết hợp mang tính chất sai lệch (false-positive associations). Như vậy, có 4/8 SNPs và 3/6 haplotypes kết hợp một cách ý nghĩa với hàm lượng protein PC/ hàm lượng SPC trong hai hoặc nhiều hơn môi trường trên cơ sở xem xét mô phỏng hỗn hợp (mixed model). Một chỉ thị SNP liên kết có ý nghĩa với PC, BARC-021267-04016, định vị ở quãng 0.28 cM với gen mã hóa glycin, G7, và được tìm thấy chúng biểu hiện qua tất cả bốn môi trường nghiên cứu. Bốn loci chủ lực liên quan đến SPC-specific, đó là BARC-029149-06088, BARC-018023-02499, BARC-041663-08059haplotype 15 (hp15), được người ta xác định trên nhiễm sắc thể 5 và 8. Chúng giải thích được 8.5–15.1 % biến thiên kiểu hình. Hơn nữa, gen mã hóa glutelin type-B 2-like cũng được xác định trên nhiễm sắc thể 8 và có khả năng liên quan đến tính chất dễ hòa tan của protein đậu nành. Những markers như vậy định vị trên QTL đã được người ta báo cáo trước đây, chúng tái khẳng định lại những kết quả trước đó và trở thành những markers mục tiêu được sử dụng để xác định các gen có liên quan đến protein. Những SNPs mới này và những haplotypes ấy vô cùng quan trọng phục vụ cho nghiên cứu sâu hơn bản chất di truyền học của PC và SPC. Thông qua việc so sánh tương quan và loci di truyền giữa PC và SPC, người ta cung cấp cho các nhà khoa học cách nhận định mới về giống đậu nành tại sao khi hàm lượng PC cao thì SPC lại thấp.

 

Nguồn: Dan Zhang, Guizhen Kan, Zhenbin Hu, Hao Cheng, Yu Zhang, Qing Wang, Hui Wang, Yuming Yang, Hongyan Li, Derong Hao, Deyue Yu

 

Theoretical and Applied Genetics September 2014, Volume 127, Issue 9, pp 1905-1915

http://link.springer.com/article/10.1007/s00122-014-2347-2

 

GS. Bùi Chí Bửu lược dịch.

Trở lại      In      Số lần xem: 2452

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD