Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  23
 Số lượt truy cập :  33277402
Tuần tin khoa học 605 (22-28/10/2018)
Thứ bảy, 20-10-2018 | 06:29:57

Phát triển giống thuốc lá kháng bệnh do virus bằng công nghệ gen

 

Description: Kết quả hình ảnh cho mosaic virus in tobaccoThuốc lá trồng được ở những vùng đất nghèo dinh dưỡng và khí hậu cực đoan. Hai quần thể giống thuốc lá: K-326 và C9-1, cho năng suất cao và phẩm chất tốt nhưng rất nhiễm đối với bệnh do virus. Hiện nay, chưa có giống thuốc lá kháng được virus ở Việt Nam, đặc biệt là virus gây bệnh khảm và xoăn đọt (spotted wilt virus). Các nhà khoa học Việt Nam đã thực hiện một nghiên cứu nhằm phát triển giống thuốc lá kháng virus bằng công nghệ gen. Họ hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa học thuộc Institute of Molecular Biology and Biotechnology, Belgium, tạo được giống thành công bằng kỹ thuật làm câm gen hay công nghệ RNAi . Họ đã thiết kế 3 vectors mang đơn gen (TMV, TSWV) hoặc mang đa gen (TMV, TSWV, CMV và TYLCV). Hiệu quả chuyển nạp của K326 và C9-1 là 18.33% và 11.6%, theo thứ tự. Các dòng transgen T1 mang những gen đồng hợp tử (TMV-K18-06; TMV-K18-10; TSWV-K03-01, TCYS-K18-01; TMV-C12-03, TSWV-C05- 02 và TCYS-C17-01), với các quy chuẩn chất lượng như giống nguyên thủy K326 và C9-1. Phân tích kết quả thí nghiệm trong nhà lưới cho thấy các dòng thuốc lá transgenic được phát triển thành công. Đây là cơ sở khoa học để minh chứng cho việc áp dụng công nghệ RNAi tạo giống kháng virus. Xem Vietnam's Office of Biotechnology website.

 

Gen cây đậu nành kháng stress do “alkaline” trong cây cỏ ba lá (alfalfa)

 

Description: http://iasvn.org/en/upload/news/New_Picture_3_39.pngGen bZIP có vai trò quan trọng cho cây trồng ở điều kiện stress do pH đất cao. Tuy nhiên, có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này so với công trình nghiên cứu về stress mặn. Nhóm nghiên cứu của Mingzhe Sun thuộc Northeast Agricultural University đã xác định cơ chế và chức năng hoạt động của gen GsbZIP67 từ loài đậu nành hoang dại chuyển vào cây cỏ ba lá (alfalfa) thông qua kỹ thuật chuyển nạp gen. Lần đầu tiên họ nghiên cứu sự thể hiện gen trong cây đậu nành hoang dại, tế bào trần của cây Arabidopsis, và nấm men (yeast), trong khi khai thác mức độ thể hiện gen khác nhau, tại các cơ quan khác nhau, sử dụng kết quả phân tích thể hiện RNA. Với vector chuyển nạp pCAMBIA, họ đã cho thể hiện mạnh mẽ gen này trong cây cỏ alfalfa và xử lý cây chuyển nạp gen trong nghiệm thức bị stress do kiềm. Trong điều kiện bị stress như vậy, chiều dài chồi thân và chiều dài rễ bị ảnh hưởng. Nhiều gen có trong phản ứng với stress do kiềm, cũng thể hiện ở mức độ rất cao. Theo đó, người ta xác định đây là cơ sở kiến thức về gen bZIP khi cây chống chịu với stress. Xem BMC Plant Biology.

 

Xác định họ gen  SWEET TRANSPORTER trong cây khoai mì

 

Họ gen SWEET (đường cuối cùng sẽ được nạp cho các phân tử transporters) có vai trò quan trọng trong nhiều chu trình sinh học khác nhau, ví dụ tăng trưởng, phát triển và đáp ứng với điều kiện môi sinh bên ngoài. Chu Duc Ha và ctv. đã hoàn thiện công trình nghiên cứu hệ gen cây khoai mì, xác định được 28 thành viên của họ gen MeSWEET. Những gen này phân bố trên 13 nhiễm sắc thể / tổng số 18 NST của hệ gen cây khoai mì. Hầu hết các gen MeSWEET có 6 exons, và tổ chức exon/intron cũng được tìm thấy như ở nhiều loài cây trồng khác. Điểm đẳng điện và dự báo với TargetP cho thấy rằng chủ yếu họ gen MeSWEET phân bố nhiều ở nơi thực hiện chu trình bài tiết của cây. Kết quả cho thấy họ gen SWEET trong cây khoai mì (sắn) là cơ sở khoa học để nghiên cứu chức năng gen. Xem tạp chí tiếng Việt Journal of Science.

 

Description: Kết quả hình ảnh cho cassava SWEET transporter genes

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hình: Tổ chức exon/intron của các gen MeSWEET

 

CRISPR-CAS9 được sử dụng để tìm gen đích của nấm gây bệnh đạo ôn lúa

 

Nấm gây bệnh đạo ôn  Magnaporthe oryzae  pathogen vô cùng quan trọng trong sản xuất lúa. bệnh luôn đe dọa cho tất cả các vùng trồng lúa trên thế giới. Nhóm nghiên cứu của Nicholas Talbot thuộc The Sainsbury Laboratory, Norwich, Anh Quốc đã sử dụng hệ thống CRISPR-Cas9 với phức ribonucleoprotein để xác định vị trí đích của M. oryzae. Họ thấy rằng Cas9 là độc tố đối với vi nấm này. Do đó, hệ thống CRISPR-Cas9 phải liên kết với ribonucleoprotein để cho kết quả chuyển nạp ổn định đối với nấm. Kết quả được đánh giá rất chính xác và thao tác nhanh trên hệ gen nấm M. oryzae. Họ cố gắng vận dụng phương pháp này để phục vụ cho các công trình nghiên cứu khác – những loài pathogen khác. Xem Scientific Reports.

 

 

Thay thế gen trong hệ gen cây cà chua nhờ hệ thống CRISPR-CAS9 và replicon

 

CRISPR-Cas9 có thể được sử dụng để phục vụ cho hai loại hình chỉnh sửa hệ gen, đó là: sửa lỗi NHEJ và sửa lỗi HDR. Sửa lỗi NHEJ được thực hiện theo cách sửa lỗi có trong tự nhiên của tế bào để sáng tạo ra những tái tổ hợp mới hoặc tạo ra đột biến trên chuỗi trình tự DNA, trong khi đó, sửa lỗi HDR được thực hiện thông qua trình tự DNA nền đến tế bào sao cho DNA nền như vậy sẽ thay thế DNA nguyên thủy bị tổn thương. So sánh hai cách làm ấy, HDR tương đối khó hơn trong quá trình tạo ra nó. Tuy nhiên, các nhà khoa học Israel đề xuất phương pháp xác định gen đích và tạo ra HDR thành công trên cây cà chua. Tal Dahan-Meir và ctv. thuộc Weizmann Institute of Science, Israel sử dụng phân tử “replicon” phục vụ cho việc hình ra ra những DNA nền (DNA template-provider) phục vụ hệ thống chỉnh sửa hệ gen. Gen CRTISO và PSY1 được cải biên một cách chính xác trong cây cà chua với hệ thống CRISPR-Cas9, cùng với cái gọi là "bean yellow dwarf virus rolling circle" replicon với hiệu quả thành công 90%. Họ đã đề nghị phát triển phương pháp này đối với những gen khác nữa trong hệ gen cây cà chua và loài cây trồng khác. Xem The Plant Journal.

 

Hoa hồng màu xanh dương

 

Hoa hồng màu xanh dương (Blue roses) không có trong tự nhiên, các nhà canh tác học về hoa nhúng hoa cắt cành vào dung dịch nhuộm để có hoa hồng màu “blue-hued” nhân tạo. Nhờ tiến bộ công nghệ sinh học hiện đại, người ta có thể đạt được mục đích tạo ra giống hoa hồng có màu sắc nhờ vi khuẩn phóng thích “sắc tố”.

 

Hình: Nhờ sự thể hiện gen của vi khuẩn, cánh hoa hồng trắng có thể biểu hiện màu xanh dương. Credit: American Chemical Society

 

Họ tìm ra cách thức biểu hiện sắc tố hoa từ vi khuẩn với enzyme tương thích của vi khuẩn trong cánh hoa hồng trắng, làm cánh hoa có màu “blue tint”. Họ chọn ra hai enzymes của vi khuẩn rồi phối trộn với nhau làm chuyển đổi L-glutamine, thành phần chính của cánh hoa hồng, thành sắc tố xanh dương “blue indigoidine”. Kỹ thuật biến nạp gen dựa trên chủng nòi vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens có chứa hai gen điều khiển sắc tố, mà điều này phát xuất từ một loài khác của vi khuẩn. Họ họ tiêm vi khuẩn biến nạp vào trong cánh hoa hồng trắng, vi khuẩn này chuyển gen sản sinh ra sắc tố vào hệ gen cây bông, màu xanh “blue” sẽ trải rộng ra từ vị trí tiêm chích. Màu xanh này biểu hiện qua thời gian ngắn và không đồng đều, tuy nhiên, các nhà khoa học này cho rằng đây là công trình đầu tiên trên thế giới chuyển nạp thành công tạo giống hoa hồng có màu xanh “blue”. Xem American Chemical Society.

 

THÔNG BÁO

 

Hội nghị quốc tế về công nghệ sinh học và bioengineering

 

Hội nghị quốc tế về công nghệ sinh học và bioengineering diễn ra vào ngày 7-8 tháng 12 năm 2018, tại Madrid, Tây Ban Nha

 

Xin vui lòng xem conference website

 

 

Trở lại      In      Số lần xem: 542

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD