Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  37
 Số lượt truy cập :  33269452
64% diện tích đất nông nghiệp toàn cầu có nguy cơ ô nhiễm thuốc trừ sâu
Thứ tư, 07-04-2021 | 08:14:01

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Geoscience đã đưa ra mô hình lập bản đồ toàn cầu về nguy cơ ô nhiễm do 92 hóa chất thường được sử dụng trong thuốc trừ sâu nông nghiệp ở 168 quốc gia. Nghiên cứu đã đánh giá rủi ro đối với đất, khí quyển, nước mặt và nước ngầm.

 

Bản đồ cũng cho thấy châu Á có những khu vực đất lớn nhất có nguy cơ ô nhiễm cao, trong đó Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia và Philippines có nguy cơ cao nhất. Một số khu vực này được coi là các quốc gia “vựa lương thực”, nuôi sống một phần lớn dân số thế giới.

 

Tác giả chính của nghiên cứu, Tiến sĩ Fiona Tang cho biết việc sử dụng rộng rãi thuốc trừ sâu trong nông nghiệp - đồng thời thúc đẩy năng suất - có thể có những tác động tiềm ẩn đối với môi trường, sức khỏe con người và động vật.

 

Tiến sĩ Tang nói: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 64% diện tích đất canh tác trên thế giới có nguy cơ bị ô nhiễm thuốc trừ sâu. Điều này rất quan trọng vì các tài liệu khoa học phổ biến đã phát hiện ra rằng ô nhiễm thuốc trừ sâu có thể có tác động xấu đến sức khỏe con người và môi trường”.

 

Thuốc bảo vệ thực vật có thể di chuyển đến các vùng nước mặt và nước ngầm thông qua dòng chảy và thẩm thấu, gây ô nhiễm các vùng nước, do đó làm giảm khả năng sử dụng của các nguồn nước.

 

Tiến sĩ Tang cho biết: “Trên toàn cầu, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 34% các khu vực có nguy cơ cao là ở các khu vực đa dạng sinh học cao, 19% ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp và 5% ở các khu vực khan hiếm nước”.

 

Người ta lo ngại rằng lạm dụng thuốc trừ sâu sẽ làm mất cân bằng, làm mất ổn định hệ sinh thái và làm suy giảm chất lượng nguồn nước mà con người và động vật dựa vào để tồn tại.

 

Việc sử dụng thuốc trừ sâu trên toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng lên khi dân số toàn cầu hướng tới con số dự kiến ​​là 8,5 tỷ người vào năm 2030.

 

Phó giáo sư Maggi cho biết: “Trong bối cảnh khí hậu ấm hơn, khi dân số toàn cầu tăng lên, việc sử dụng thuốc trừ sâu dự kiến ​​sẽ tăng lên để chống lại sự gia tăng của các cuộc xâm lược của sâu bệnh và để nuôi sống nhiều người hơn”.

 

Tiến sĩ Tang cho biết: “Mặc dù việc bảo vệ sản xuất lương thực là điều cần thiết cho sự phát triển của con người, nhưng việc giảm thiểu ô nhiễm thuốc trừ sâu cũng rất quan trọng để bảo vệ đa dạng sinh học, duy trì sức khỏe và chức năng của đất, góp phần hướng tới an ninh lương thực”.

 

Đồng tác giả nghiên cứu, Giáo sư Alex McBratney, Giám đốc Viện Nông nghiệp Sydney tại Đại học Sydney, cho biết: “Nghiên cứu này cho thấy điều quan trọng là phải theo dõi cẩn thận dư lượng thuốc trừ sâu hàng năm để phát hiện các xu hướng nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro từ việc sử dụng thuốc trừ sâu”.

 

Các tác giả của nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi đề xuất một chiến lược toàn cầu để chuyển đổi hướng tới một mô hình nông nghiệp toàn cầu, bền vững nhằm giảm lãng phí lương thực trong khi giảm việc sử dụng thuốc trừ sâu”.

 

Nguyễn Minh Thu - Mard, theo sciencedaily

Trở lại      In      Số lần xem: 387

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD