Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  19
 Số lượt truy cập :  33451201
Bò thông minh hơn khi lớn lên theo cặp
Thứ năm, 06-03-2014 | 08:04:36

Một nghiên cứu mới đây của trường Đại học British Columbia đã khám phá ra rằng: Bò tiếp thu tốt hơn khi được nuôi nhốt cùng với nhau có thể giúp chúng thích nghi nhanh hơn với thức ăn và với công nghệ vắt sữa phức tạp mới ở các nông trại hiện đại.

 

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí PLOS ONE, cho thấy những con bê sữa tiếp thu tốt hơn khi "hệ thống bạn thân" được thiết lập. Nghiên cứu cũng cung cấp bằng chứng đầu tiên cho thấy rằng, các tiêu chuẩn thực hiện việc nuôi nhốt riêng biệt những con bê có liên quan đến những khó khăn nhất định trong việc tiếp thu để thích nghi của chúng.

Nuôi ghép bê dường như làm thay đổi cách những con vật này có thể xử lý thông tin, Dan Weary - tác giả đứng tên phản hồi của nghiên cứu và là giáo sư tham gia Cchương trình Chăm sóc sức khỏe vật nuôi của trường Đại học British Columbia cho biết. Các nhà nghiên cứu khuyến cáo nông dân sử dụng một số hình thức chuồng nuôi nhốt bê trong giai đoạn bú sữa.

Bởi các trang trại đang ngày càng trở nên phức tạp khi gia súc tương tác với robot vắt sữa, hệ thống cho ăn tự động và các công nghệ khác, khả năng thích ứng chậm có thể gây bực bội cho những bò và người nông dân.

Weary cho biết thêm: “Gặp vấn đề về khả năng thích ứng với những thay đổi trong thói quen và môi trường có thể gây ra nhiều trở ngại cho người nông dân và vật nuôi, việc chuyển đổi từ một chuồng nuôi nhốt từng cá thể sang chuồng nuôi theo cặp cũng đơn giản như loại bỏ bức tường ngăn.

Người nông dân thường nhốt bê trong những cái chuồng riêng và tin rằng điều đó sẽ giúp giảm sự lây lan của dịch bệnh. Nhưng Weary cho rằng quan ngại đó là không có cơ sở nếu những con bò được nuôi nhốt theo từng nhóm nhỏ. Nguy cơ một con vật bị bệnh và ảnh hưởng đến những con khác là có thể xảy ra đối với các nhóm lớn, nhưng không đúng với các nhóm nhỏ hơn chẳng hạn như hai hoặc ba con/nhóm.

Nghiên cứu này được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu và huấn luyện bò sữa của trường Đại học British Columbia tại Agassiz, BC, có liên quan đến hai bài thử nghiệm về nhận thức cho hai nhóm bê Holstein được nuôi nhốt trong từng chuồng riêng và nuôi nhốt theo cặp.

Trong thử nghiệm đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã đưa một đối tượng mới (một thùng nhựa màu đỏ) vào chuồng của bê. Khi lần đầu tiên tiếp xúc với đối tượng mới này tất cả các con bê đều thể hiện sự quan tâm, như dự đoán. Nhưng sau nhiều sự va chạm với đối tượng đó, bê nhốt riêng biệt vẫn tiếp tục phản ứng như thể đó là lần tiếp xúc đầu tiên của chúng, trong khi bê nuôi nhốt theo cặp bắt đầu làm quen và lờ luôn đối tượng đó.

Các thử nghiệm cho thấy rằng, nuôi nhốt riêng biệt có thể làm cho bê nhạy cảm hơn với cái mới, và do đó ít có khả năng làm quen với những thay đổi trong môi trường của chúng, Giáo sư Dan Weary nói. Điều này có thể khiến cho những con vật nuôi thấy khó khăn hơn để tiếp thu hoặc làm điều gì đơn giản như đi bộ xuống một con đường và không bị choáng ngợp bởi ánh sáng chói lóa hoặc tiếng ồn mới.
Trong thử nghiệm thứ hai, các con bê được dạy để hoàn thành một nhiệm vụ đơn giản, tiếp cận một chai màu đen đầy sữa và tránh một chai rỗng màu trắng. Sau khi bê học để ưu tiên tiếp cận các chai màu đen, các nhà nghiên cứu đã thay đổi quy tắc để xác định xem bê có thể thích nghi với một thay đổi về quy định như thế nào.
 
M.T. - Mard, Theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 1005

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD