Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  16
 Số lượt truy cập :  33448244
Bước tiến lớn trong dùng tảo làm nhiên liệu sinh học
Thứ ba, 04-03-2014 | 15:04:42

Thành công trong phòng thí nghiệm không phải lúc nào cũng thành công trong thế giới thực. Tuy nhiên, một nhóm các nhà khoa học Đại học Bang Michigan (MSU) đã phát minh ra một công nghệ mới làm tăng tỷ lệ đưa nhiên liệu sinh học vượt qua được khoảng cách này và đến gần hơn với hiện thực.

 

algae viability as a biofueljpg.jpg
 Hệ thống ePBR, với khả năng có thể giúp cho việc thực hiện nghiên cứu nhiên liệu sinh học tảo hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư, là đứa con tinh thần của David Kramer, giáo sư xuất sắc về hóa sinh và sinh học phân tử tại MSU.
Phát minh của nhóm nghiên cứu là một lò phản ứng quang sinh học môi trường hay ePBR. Hệ thống ePBR là nền tảng trồng tảo tiêu chuẩn đầu tiên trên thế giới, mô phỏng môi trường tự nhiên nhiều biến đổi.

Nói đơn giản, ePBR là một cái ao trong một cái lọ giúp xác định, nuôi trồng và kiểm tra chủng tảo có tiềm năng tạo bước nhảy vọt từ phòng thí nghiệm ra ao, sinh sôi nảy nở trong thế giới thực - các ao ngoài tự nhiên và sản xuất ra nhiều dầu nhất.

Nhiều nhà khoa học trên thế giới đang tìm kiếm các chủng tảo có thể trở thành một nguồn năng lượng thay thế bền vững. Tuy nhiên, một vấn đề khó khăn mà họ gặp phải là chủng tảo thực hiện tốt trong phòng thí nghiệm lại thường gặp vấn đề khi mở rộng thí nghiệm, Ben Lucker từ MSU, cho biết.

 "Nó giống như là đào tạo trẻ em tiểu học trở thành người chơi bóng bàn thực sự tốt, " ông ví von". Nhưng sau đó họ có những đứa trẻ này và đưa chúng vào một trò chơi bóng đá với người chơi chuyên nghiệp; và trong  hoàn cảnh này, dĩ nhiên chúng không thể cạnh tranh được".

Phòng thí nghiệm của Kramer không giống với phòng thí nghiệm của bất kỳ ai. Mặc dù nó là nơi nghiên cứu của các nhà sinh học thực vật nhưng có thể nhầm nó là một nhà máy điện tử. Những chiếc bàn đầy dây, sắt hàn và bo mạch in. Thậm chí còn có vài nguyên mẫu lúc đầu, giúp cho biết về quá trình phát triển hệ thống ePBR trước đó.

Mô hình mới nhất phát ánh sáng xanh và kêu vo vo nhè nhẹ khi họ kiểm tra các chủng khác nhau. Bằng cách cho phép các nhà khoa học sao chép môi trường tự nhiên trong phòng thí nghiệm, hệ thống ePBR loại bỏ nhiều biến số trước khi mở rộng quy mô. Lò phản ứng sinh học có kích thước khoảng bằng máy pha cà phê và có thể tạo ra những thay đổi về ánh sáng, nhiệt độ, cacbon dioxit, oxy, bốc hơi, dinh dưỡng…

Hệ thống ePBR còn có thể sao chép và xác nhận kết quả từ các thí nghiệm được thực hiện ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nó thay thế các nền tảng trồng trong nhà làm từ bình, ống, lõi nhôm và phát ánh sáng và cung cấp cho các nhà nghiên cứu một công cụ mà có thể tái tạo điều kiện tự nhiên và cho ra kết quả luôn nhất quán với nhau, Lucker cho biết.

Nghiên cứu của Giáo sư Kramer được tài trợ một phần bởi Bộ Năng lượng và MSU AgBioResearch.

Xem thêm: http://msutoday.msu.edu/news/2014/msu-advances-algaes-viability-as-a-biofuel/

Thanh Vân - Dostdongnai, Theo Eurekalert.

Trở lại      In      Số lần xem: 859

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD