Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  24
 Số lượt truy cập :  33341100
Các nhà khoa học nghiên cứu về giá trị năng lượng và khả năng tiêu hóa của thức ăn chăn nuôi
Thứ hai, 03-08-2015 | 08:01:16

Các sản phẩm có nguồn gốc từ các loại ngũ cốc như ngô, lúa mì và lúa miến đang ngày càng được sử dụng nhiều trong thức ăn chăn nuôi. Nghiên cứu do các nhà khoa học tại Đại học Illinois giúp xác định giá trị năng lượng của các sản phẩm hỗn hợp này.

 

Hans H Stein, Giáo sư Khoa học động vật tại trường Đại học Illinois cho biết: “Việc xác định được các thành phần cụ thể của hy-đrát các-bon trong thức ăn chăn nuôi là rất quan trọng để xác định giá trị năng lượng của nó”.

Ông Stein nói: “Sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp chứa nhiều chất xơ và không có thành phần tinh bột polysaccharides (NSP). Những hy-đrát các-bon này được tiêu hóa kém hiệu quả hơn so với tinh bột và cũng có thể làm giảm tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng khác. Việc bổ sung các enzim phân huỷ hy-đrát các-bon có thể giúp cải thiện khả năng tiêu hóa chất xơ và NSP, nhưng trước tiên chúng ta cần phải biết loại hy-đrát các-bon nào có trong thức ăn chăn nuôi để có thể chọn các enzim phù hợp”.

Nhóm nghiên cứu của ông Stein đã tiến hành hai thí nghiệm. Trong thí nghiệm đầu tiên, họ đã xác định các thành phần hy-đrát các-bon của 12 nguyên liệu thức ăn chăn nuôi là ngô, bã rượu ngô hạt khô với các chất hòa tan (DDGS), bột gluten ngô, thức ăn chăn nuôi gluten ngô, bột mầm lúa mì, cám ngô; lúa miến và hai nguồn DDGS từ lúa miến; lúa mì, lúa mì tấm và cám lúa mì.

Lượng tinh bột gồm 62% ngô, 69% lúa miến và 61,8% lúa mì. Các sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp dao động từ 2,5% tinh bột trong DDGS từ lúa miến đến 22,6% trong cám ngô. Lượng tinh bột polysaccharides ở các sản phẩm này dao động từ 24,7% trong DDGS từ lúa miến đến 41,8% trong cám ngô. Loại thức ăn chăn nuôi Arabinoxylan có lượng tinh bột polysaccharides lớn nhất.

Ông Stein lưu ý: “Những kết quả này chỉ ra rằng các enzim ngoại sinh có thể thủy phân arabinoxylans có thể là hiệu quả nhất vì phần lớn nhất của NSP trong ngô và các sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp có ngô, lúa miến và DDGS lúa miến, lúa mì và sản phẩm ngũ cốc hỗn hợp có lúa mì là arabinoxylans.

Trong thí nghiệm thứ hai, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm khả năng tiêu hóa tinh bột polysaccharides (NSP). Kết quả là gần bằng không đối với hầu hết các thành phần, điều này chỉ ra rằng pép-xin và enzim tuyến tụy không làm giảm NSP.

Trong ống nghiệm, khả năng tiêu hoá NSP dao động từ 6,5% trong cám ngô 57,3% trong khẩu phần ăn có gluten ngô.

Ông Stein nói: “Nếu lợn được cho ăn chế độ ăn có lượng NSP cao, sự tiêu hóa năng lượng sẽ giảm. Nhưng các thành phần của phần NSP ảnh hưởng đến khả năng lên men. Thành phần có nhiều NSP dễ tan sẽ có giá trị năng lượng cao hơn so với các thành phần có NSP dễ tan ít hơn”.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Animal Science.

Nguyễn Minh Thu - Mard, theo Thepigsite.
Trở lại      In      Số lần xem: 819

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD