Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  11
 Số lượt truy cập :  33336885
Dữ liệu vệ tinh cung cấp hình ảnh về nước ngầm
Thứ năm, 03-07-2014 | 08:01:01

Các nhà khoa học tại trường Đại học Stanford, Hoa Kỳ đã đi tiên phong trong việc sử dụng vệ tinh để đo chính xác mực nước được lưu trữ sâu dưới lòng đất. Các kết quả nghiên cứu mới đây đã được công bố trên Tạp chí Water Resources Research.

 

Theo Hiệp hội nước ngầm quốc gia, nước ngầm cung cấp khoảng 25-40% lượng nước uống trên toàn thế giới và là nguồn nước ngọt chủ yếu tại nhiều quốc gia khô cằn. Khoảng 60% nước ngầm được khai thác để tưới tiêu. Ở Hoa Kỳ, con số này chiếm gần 70%. Tuy nhiên, nhiều nơi trên thế giới, các bể chứa hoặc tầng nước ngầm được quản lý yếu kém và đang cạn kiệt nhanh do thiếu dữ liệu về mực nước ngầm. Việc phát triển các mô hình nước ngầm hữu ích, dự báo mực nước và trữ nước nước đang đặt ra thách thức lớn.

 

Rosemary Knight, đồng tác giả nghiên cứu và là GS. địa vật lý đã so sánh việc sử dụng nước ngầm với một tài khoản ngân hàng được quản lý yếu kém: "Nó giống như tôi nói: tôi sẽ nghỉ hưu và sống bằng tiền tiết kiệm của mình mà không biết có bao nhiêu tiền trong tài khoản".

 

Đến nay, cách duy nhất một chuyên gia quản lý nước có thể thu thập dữ liệu về hiện trạng của gương nước trong thủy vực là khoan các giếng quan trắc. Qui trình này mất thời gian và tốn kém, đặc biệt đối với các tầng nước ngầm hạn chế là các bế chứa sâu dưới lòng đất ngăn cách với mặt đất bằng nhiều lớp đất sét không thấm nước. Ngay cả khi sử dụng các giếng quan trắc, dữ liệu cũng không bảo đảm. Phần lớn dữ liệu từ các giếng quan trắc ở miền Tây Hoa Kỳ đã cũ và có chất lượng khác nhau. Hơn nữa, không phải tất cả dữ liệu được chia sẻ công khai.

 

Để giải quyết những thách thức này, các nhà khoa học đã sử dụng vệ tinh để thu thập dữ liệu về mực nước ngầm. Vệ tinh sử dụng sóng điện từ, theo dõi sự thay đổi độ cao của mặt đất đến mức 1mm để tìm các manh mối về nước ngầm. Công nghệ này gọi là Radar có độ mở tổng hợp giao thoa (InSAR), trước đây được sử dụng chủ yếu để thu thập dữ liệu về núi lửa, động đất và lở đất.

 

Nhờ có sự tài trợ của NASA, các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ InSAR để đo đạc tại 15 địa điểm ở Thung lũng San Luis của bang Colorado, một vùng nông nghiệp quan trọng và là đường bay của chim di cư. Dựa vào những thay đổi trên mặt đất, các nhà khoa học đã đưa ra số liệu đo đạc về mực nước trong các tầng nước ngầm hạn chế tại 3 trong số các địa điểm. Dữ liệu này trùng khớp với dữ liệu thu thập từ các giếng quan trắc gần đó.

 

Đột phá mới có tiềm năng cung cấp dữ liệu giá trị cho các nhà quản lý tài nguyên ở bang Colorado và những nơi khác, giúp lập mô hình để đánh giá các kịch bản như ảnh hưởng đến nước ngầm do dân số tăng và hạn hán.

 

Các vệ tinh quan trắc sẽ cung cấp nhiều số liệu chính xác để theo dõi và quản lý nước ngầm. Cuối cùng, dữ liệu thu thập bằng công nghệ InSAR, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đo lường những thay đổi của nguồn cung cấp nước ngầm theo mùa và giúp xác định mức sử dụng nước bền vững.

 

N.P.D - NASATI, theo Sciencedaily.

Trở lại      In      Số lần xem: 1175

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD