Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  84
 Số lượt truy cập :  34069315
Giải trình bộ gien của tảo đỏ
Thứ năm, 21-03-2013 | 16:01:43

Bộ gien tảo đỏ đầu tiên đã được giải trình bởi một nhóm nghiên cứu quốc tế phối hợp bởi CNRS và UPMC tại Station Biologique de Roscoff (Brittany), với sự tham gia của các nhà nghiên cứu từ CEA Genoscope, Đại học Lille 1 và Rennes 1 và Bảo tàng lịch sử tự nhiên quốc gia. Gien của Chondrus crispus còn được biết đến với cái tên “pioka”, rất nhỏ và gọn cho một sinh vật đa bào.

 

Nó có ít gien hơn so với một số loài tảo đơn bào khác, làm dấy lên một số câu hỏi về sự tiến hóa của tảo đỏ. Số lượng gien thấp có thể giải thích lý do tại sao những sinh vật này không bao giờ xâm lấn sang vùng đất khô. Những phát hiện này mở ra triển vọng mới về lịch sử tự nhiên của tảo và thực vật trên cạn.

Nghiên cứu được công bố trực tuyến trên tạp chí PNAS, số ra ngày 11 tháng 3.

Chondrus crispus là một loại tảo đa bào màu đỏ dài khoảng 20 cm. Nó rất phổ biến ở các bờ biển đá của Bắc Đại Tây Dương, ở đó nó đóng vai trò quan trọng là một sinh vật sản xuất chính trong các hệ sinh thái. Một số tảo đỏ được sử dụng trong ngành thực phẩm nông nghiệp bởi đặc tính đặc sệt của chất carrageenan từ thành tế bào của chúng. Những polysaccharides sulfate này tương đương với phụ gia thực phẩm E-407, được sử dụng trong các món tráng miệng và các món ăn khác. Ngoài các ứng dụng công nghiệp, giải trình gien tảo đỏ lần đầu tiên đã làm sáng tỏ sự tiến hóa của thực vật.

Bộ gien Chondrus đã có một số bất ngờ cho các nhà nghiên cứu. Chỉ với 9.606 gien và 105 triệu cặp cơ sở, nó thực sự là rất nhỏ đối với một sinh vật đa bào. Tảo đơn bào xanh Chlamydomonas reinhardtii có 14.516 gien, trong khi loài thực vật đa bào trên mặt đất Arabadopsis thaliana có 27.416 gien. Bộ gien Chondrus cũng rất nhỏ gọn, với từng chức năng tương ứng với một gien đơn. Tập hợp gien nhỏ, và rất gần nhau.

Để giải thích những đặc điểm này có gì gây ngạc nhiên, các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, hơn một tỷ năm trước đây, tảo đỏ trải qua một mất mát lớn về vật chất di truyền do điều kiện môi trường khắc nghiệt. Sự kiện này trong lịch sử tiến hóa của chúng sẽ mang lại nhiều hậu quả. Sự mất mát của các gien tiên mao (lông roi) có thể là một hậu quả, gien này vẫn còn tồn tại ở hầu hết các sinh vật khác và đảm nhiệm việc dịch chuyển của tế bào nào đó (chẳng hạn như các giao tử trong quá trình sinh sản hữu tính ở hầu hết các sinh vật, bao gồm cả con người).

Nếu hiện tượng mất gien không bao giờ xảy ra, tảo đỏ có thể định cư ở môi trường trên mặt đất theo cùng một cách như tảo xanh - tổ tiên của tất cả các loài thực vật trên đất liền.

Trình tự của bộ gen Chondrus đang hé mở kho lưu trữ của hơn 1.500 triệu năm trong lịch sử tiến hóa của thực vật trên cạn và dưới biển. Nó cung cấp một nền tảng mới cho việc nghiên cứu sinh học tảo đỏ và đây là bước đầu tiên trong một chương trình nâng cao hiểu biết của chúng ta về nguồn gốc sự sống trên Trái đất, sự thích nghi của tảo đỏ với môi trường của chúng và các con đường sinh tổng hợp của các phân tử sinh học được quan tâm, chẳng hạn như carrageenan. Các nhà khoa học cũng hy vọng sẽ khám phá ra các enzym mới cho công nghệ sinh học biển.
 
K.P. - Mard, Theo Sciencedaily

 

Trở lại      In      Số lần xem: 1727

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD