Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  52
 Số lượt truy cập :  34087245
Mô hình khoa học mới trong sản xuất nông nghiệp giúp tăng cường an ninh lương thực
Thứ năm, 08-05-2014 | 09:23:28

Người nông dân luôn nỗ lực tối ưu hóa sản xuất cây trồng trên vùng đất của mình. Nhưng liệu họ có thể tối ưu hóa sản xuất trên một khu vực rộng lớn hơn nhiều như khu vực bờ biển phía Đông của nước Mỹ? Đó là câu hỏi được nhóm các nhà khoa học thuộc Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp Mỹ ở Beltsville đặt ra và đưa ra hướng giải quyết bằng cách phát triển một công cụ mô hình mới rất hiện đại.

 

Công cụ này được gọi là “Quản lý không gian địa lý nông nghiệp và khung đánh giá cây trồng” (GAMCAF) tập hợp các mô hình cây trồng ước tính sự tăng trưởng thực vật và năng suất cây trồng ở các phạm vi 30 m với nguồn thông tin về đất, nước, mục đích sử dụng đất và các yếu tố khác. Các mô hình cây trồng thường không được thiết kế để làm việc tự động với các dữ liệu không gian. Tuy nhiên, công cụ mới được đăng tải trên Tạp chí Khoa học Nông nghiệp đã cho phép các nhà khoa học làm được điều này.

Nhà khoa học Jonathan Resop cho biết: “Bằng cách này, chúng ta có thể đưa ra những dự đoán về sản lượng trên toàn bộ phạm vi khu vực. Sức mạnh thực sự của công cụ này là nó cho phép các nhà khoa học xem xét các kịch bản khác nhau về sự thay đổi mục đích sử dụng đất, nước và biến đổi khí hậu. Ví dụ, sản lượng nông nghiệp sẽ thay đổi thế nào nếu đất nông nghiệp bị mất đi nhiều hơn hoặc nếu nhiệt độ trung bình của các mùa trồng trọt tăng đáng kể trong những thập kỷ tới ?”.

Nghiên cứu được tiến hành trong bối cảnh gia tăng những lo ngại về an ninh lương thực trên vùng ven biển phía Đông khu vực. 13 bang nằm ở giữa Maine và Virginia (cộng với khu vực District of Columbia) với gần 25% dân số nhưng chỉ có 5-6 % diện tích đất nông nghiệp của Mỹ. Khu vực này phải nhập khẩu lên đến 75-80% các loại trái cây và rau quả từ những nơi xa xôi như California.

Nhà nghiên cứu Dave Fleisher, người chủ trì dự án cho biết: “Khu vực này đủ giàu có để nhập khẩu tất cả các thực phẩm cần thiết. Nhưng tại rất nhiều các trung tâm đô thị, người dân không được tiếp cận với các loại trái cây và rau quả tươi và có nhiều người không được đảm bảo an ninh lương thực. Ngoài ra, biến đổi khí hậu và giá cả vận chuyển luôn biến động khiến khu vực này phải tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho riêng mình”.

Câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học là điều gì hạn chế sản xuất nông nghiệp trong khu vực này? Chất lượng đất, nguồn nước hay diện tích đất trồng trọt? Đó là một câu hỏi phức tạp, vì vậy Resop và các cộng sự bắt đầu xem xét vụ mùa khoai tây. Đây là một thực phẩm chính của khu vực. Tuy nhiên, khu vực này chỉ trồng khoảng 30% lượng khoai tây tiêu thụ. Trong vòng một thập kỷ qua, nhóm nghiên cứu cũng đã xây dựng mô hình vụ mùa khoai tây và đưa vào công cụ GAMCAF. 

Khi nhóm nghiên cứu sử dụng GAMCAF để dự đoán sản lượng khoai tây vùng ven biển phía Đông với kịch bản tất cả đất nông nghiệp được sử dụng trồng loại cây này, họ nhận thấy năng lực sản xuất có thể tăng tới 40% so với ban đầu. Một phát hiện quan trọng nữa tập trung vào lĩnh vực quản lý nước đó là việc tăng cường tưới tiêu, đặc biệt là ở những nơi các trang trại trồng khoai tây phụ thuộc vào lượng mưa như Pennsylvania có thể làm năng suất khoai tây tăng lên đáng kể.

Tất nhiên, kịch bản trên chưa đúng với thực tế vì khu vực này sẽ không sử dụng tất cả đất nông nghiệp vào trồng một loại cây. Fleisher đã đưa thêm một mô hình trồng ngô vào GAMCAF được tích hợp với một mô hình lúa mì và hy vọng thời gian tới sẽ thêm nhiều hơn nữa. Khi đó, các nhà khoa học có thể dự đoán những nơi trồng khoai tây, ngô hay đậu tương hoặc bông cải xanh tốt nhất. Đó là một cách để tối ưu hóa sản xuất nông nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu trong khu vực.

Ngoài ra, công cụ mới với các dữ liệu khí hậu sẽ cho phép dự đoán nhiệt độ và lượng mưa trong tương lai ảnh hưởng như thế nào đến năng suất cây trồng. Nó cũng có thể kiểm tra những ảnh hưởng của việc thay đổi mục đích sử dụng đất như tình trạng mất đất nông nghiệp hoặc ngược lại - đưa đất nông nghiệp bị bỏ hoang ở những nơi như Maine trở lại sản xuất. Cuối cùng, công cụ này thậm chí có thể được sử dụng để đưa ra các dự báo tương tự đối với các khu vực khác của nước Mỹ hoặc cả nước Mỹ.

Nghiên cứu này là một phần của dự án “Tăng cường an ninh lương thực ở vùng Đông Bắc với hệ thống thực phẩm khu vực” ( EFSNE ) do Đại học Penn thực hiện. Được tài trợ bởi Viện Thực phẩm và Nông nghiệp Quốc gia, Bộ Nông nghiệp Mỹ, EFSNE đang tiến hành đánh giá những lợi ích mà việc tăng sản xuất lương thực trong khu vực có thể mang lại cho người tiêu dùng, đặc biệt là ở các khu vực trong hoàn cảnh khó khăn, nông dân địa phương, các nhà bán lẻ, nhà phân phối và những đối tượng khác trong chuỗi cung cấp thực phẩm.

Lê Hồng Vân - Mard, Theo phys.org
Trở lại      In      Số lần xem: 1187

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD