Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  15
 Số lượt truy cập :  33462288
Nâng cao khả năng sử dụng dinh dưỡng của cây lúa bằng việc tiêm chủng vi khuẩn Pseudomonas fluorescens và phân vi sinh BioGro2
Chủ nhật, 17-11-2013 | 06:20:26

 Phan Thị Công1, Trần Đăng Dũng1, Trần Minh Hiền1, Trần thị Kim Cúc1 và Đỗ Thị Thanh Trúc1

 

Từ những năm 1980, vi sinh vật vùng rễ (rhizobacteria) kích thích sinh trưởng (PGPR) cây trồng đã được thừa nhận là có khả năng tăng cường sử dụng dinh dưỡng hiệu quả cho các cây lương thực. Hàng loạt các yếu tố liên kết với vi sinh vật vùng rễ như kích thích ra rễ, cố định đạm sinh học (BNF), gia tăng sự hữu dụng của N và P trong đất, tăng cường quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng và bảo vệ sinh học của vi sinh vật đối kháng chống lại vi sinh vật gây bệnh được công nhận là đã góp phần tăng năng suất cây trồng. Những kết quả nghiên cứu đồng ruộng tại ngoại thành Hà Nội trước đây do ACIAR và AusAID tài trợ cho thấy tác dụng của PGPR làm tăng năng suất lúa trung bình từ 10-20% (1tấn/ha) và giảm chi phí phân bón hóa học. Dự án ACIAR SMCN/2002/073 nhằm mục đích chứng tỏ việc sử dụng phân vi sinh vật trên cây lúa là một công nghệ đáng tin cậy. Phân vi sinh BioGro2 bao gồm 4 chủng vi sinh vật Pseudomonas fluorescens(1N), B9, E19 HY.

 

Nghiên cứu khả năng sản sinh chất kích thích sinh trưởng IAA của vi khuẩn  (1N) cho thấy ở các giai đọan 3, 9 và 15 ngày sau cấy, những nghiệm thức có tiêm chủng vi khuẩn 1N đều cho hàm lượng IAA tăng có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với nghiệm thức không chủng vi khuẩn 1N (đối chứng) và  hàm lượng IAA do vi khuẩn 1N sản sinh tăng theo thời gian (15 ngày sau chủng) chứng tỏ vi khuẩn 1N có khả năng kích thích sinh trưởng mạnh. Việc tiêm chủng vi khuẩn 1N cho cây mạ ở mật độ 106 CFU/g đã làm tăng hàm lượng N cây hút một cách có ý nghĩa thống kê và làm giảm tỉ lệ phần trăm lượng N cây hút từ phân bón vào (NdfF). Việc sử dụng kỹ thuật đồng vị 15N cũng cho phép tính tóan phần trăm lượng đạm cây hút do việc tiêm chủng vi khuẩn 1N: chiếm 43,4%, một tỉ lệ khá lớn. Điều này cho thấy việc tiêm chủng vi khuẩn 1N có tác dụng lớn trong việc sử dụng dinh dưỡng trong đất một cách hiệu quả ở giai đọan mạ. Ở giai đọan tượng khối sơ khởi, việc tiêm chủng vi khuẩn 1N cũng làm giảm tỉ lệ phần trăm đạm cây hút từ phân bón vào (NdfF). Phần trăm đạm cây hút do tác động của việc tiêm chủng vi khuẩn 1N ở giai đọan tượng khối sơ khởi thấp hơn ở giai đọan mạ rất nhiều. Mức bón 40 kg N ha-1 chưa thấy biểu hiện hạn chế lên tác dụng của vi khuẩn 1N. Việc giảm thấp hiệu quả ở giai đọan cây lúa lớn cũng giúp giải thích tại sao ảnh hưởng trên sinh trưởng và năng suất cây ngoài đồng ruộng rất khó quan sát thấy. Điều này cũng đưa đến đề nghị là nên chăng chúng ta phải tiếp tục việc tiêm chủng ở các giai đọan sau của cây lúa để tăng cường khả năng kích thích sinh trưởng cho bộ rễ của cây lúa.

 

Thí nghiệm đồng ruộng ở huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh cho thấy rằng ở vụ hè thu năm 2006 phân vi sinh BioGro2 có khuynh hướng làm tăng sự sinh trưởng và năng suất hạt. Chiều cao cây, trọng lượng khô và năng suất hạt tăng có ý nghĩa với các mức đạm bón và các mức lân bón. Trong vụ mùa năm 2006, việc bón phân vi sinh BioGro2 đã làm gia tăng trọng lượng khô của rơm, năng suất hạt, hàm lượng đạm, lượng đạm cây hút có ý nghĩa thống kê. Chiều cao cây, trọng lượng khô của rơm và năng suất hạt tăng có ý nghĩa (P<0,05) với các mức đạm và mức lân, cao nhất ở mức bón 90 kg N ha-1 hoặc mức bón 60 kg P2O5 ha-1. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế cao nhất ở mức bón 30 kg N ha-1 hoặc mức bón 10 kg P2O5 ha-1.

 

  • Vi khuẩn Pseudomonas fluorescens (1N) có khả năng sản sinh chất kích thích sinh trưởng IAA giúp cho cây sử dụng dinh dưỡng tốt hơn. Việc tiêm chủng vi khuẩn Pseudomonas fluorescens (1N) đã ảnh hưởng tích cực đến sinh trưởng của cây mạ một cách có ý nghĩa thống kê, làm tăng hàm lượng đạm cây hút và làm giảm tỉ lệ phần trăm lượng đạm cây hút từ phân bón vào. Kỹ thuật đồng vị 15N cho thấy lượng đạm cây hút do việc tiêm chủng vi khuẩn 1N chiếm 43,4%, một tỉ lệ khá lớn. Điều này cho thấy việc tiêm chủng vi khuẩn 1N có tác dụng lớn trong việc sử dụng dinh dưỡng trong đất một cách hiệu quả ở giai đọan mạ.
  •  
  • Ở giai đọan tượng khối sơ khởi, việc tiêm chủng vi khuẩn 1N cũng làm giảm tỉ lệ phần trăm đạm cây hút từ phân bón vào và làm tăng lượng đạm cây hút do tác động của vi khuẩn 1N. Tuy nhiên ở giai đọan này, hiệu quả tác động có thấp hơn ở giai đọan mạ: Việc giảm thấp hiệu quả ở giai đọan cây lúa lớn cũng giúp giải thích tại sao ảnh hưởng trên sinh trưởng và năng suất của cây lúa ngòai đồng ruộng cũng rất khó quan sát thấy. Điều này cũng đưa đến đề nghị là nên chăng chúng ta phải tiếp tục việc tiêm chủng ở các giai đọan sau của cây lúa để tăng khả năng sử dụng dinh dưỡng của cây lúa.
  •  
  • Phân BioGro2 có xu hướng làm tăng năng suất hạt, trọng lượng rơm trong vụ hè thu, nhưng sự khác biệt chưa có ‎ý nghĩa. Tuy nhiên đến vụ mùa ảnh hưởng của phân BioGro2 đến các chỉ tiêu trên rất có ‎ý nghĩa so với đối chứng. Điều này chứng tỏ tập đoàn vi sinh vật có ích trong phân BioGro2 đã phát huy tác dụng. Sử dụng phân BioGro2 trong sản xuất lúa đem lai hiệu quả kinh tế.
  •  
  • Việc bón phân BioGro2 đã làm tăng hàm lượng đạm trong cây, chất lượng hạt có giá trị lớn về mặt xuất khẩu.

-------------------------------------------

1 - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam.

Trở lại      In      Số lần xem: 1786

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD