Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  12
 Số lượt truy cập :  33461189
Nghiên cứu phát triển và ứng dụng một số chế phẩm có nguồn gốc sinh học trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu theo hướng phát triển bền vững tại Tây Nguyên
Thứ tư, 04-12-2013 | 08:11:18

Chè, cà phê và hồ tiêu từ lâu đã được xác định là những cây trồng chiến lược trên đất Tây Nguyên. Do đó, việc hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất ổn định cho các loại cây trồng này là cần thiết nhằm phát triển kinh tế – xã hội Tây Nguyên theo hướng bền vững. Một trong những khâu quan trọng không thể thiếu của quy trình công nghệ là việc ứng dụng các chế phẩm vi sinh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng trên cơ sở đảm bảo duy trì và phát triển chất lượng đất.

 

Xuất phát từ mục tiêu đó, các nhà khoa học của Trung tâm Phát triển Công nghệ cao thuộc Viện Hàn lâm KHCNVN đã triển khai đề tài TN3/C01 “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng một số chế phẩm có nguồn gốc sinh học trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu theo hướng phát triển bền vững tại Tây Nguyên”. Trọng tâm của đề tài là phát triển và chuyển giao Quy trình kỹ thuật ứng dụng dòng chế phẩm bảo vệ thực vật Anisaf SH, chế phẩm vi sinh xử lý phế thải đồng ruộng Vixura và một số chế phẩm vi sinh đa chức năng trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu theo hướng phát triển bền vững tại Tây Nguyên.

 

Trong khuôn khổ đề tài, các sản phẩm trên đã và đang được đưa vào thí điểm ứng dụng tổng hợp trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu tại Tây Nguyên (với quy mô 5ha cho mỗi loại cây trồng).

 

NguyenThiThu thidiemm

 

Nghiên cứu triển khai ứng dụng thuốc trừ sâu bảo vệ thực vật Anisaf SH-01, chế phẩm Anisaf SH – 01 (1), Anisaf SH – 01 (2) và chế phẩm vi sinh xử lý phế thải đồng ruộng Vixura

 

Trên cơ sở phân tích tính chất của các mẫu đất trồng chè, cà phê, hồ tiêu ở Tây Nguyên (là đất chua nhẹ, độ ẩm không cao, mật độ các vi sinh vật hữu ích thấp), nhóm nghiên cứu đề tài đã lựa chọn ứng dụng dòng thuốc bảo vệ thực vật Anisaf SH trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu. Cụ thể là thuốc trừ sâu bảo vệ thực vật Anisaf SH-01, chế phẩm Anisaf SH-01 (1) và Anisaf SH-01 (2).

 

Anisaf SH-01 có thành phần là Polyphenol được chiết xuất từ thực vật không gây độc hại cho cây trồng, vật nuôi, đảm bảo vệ sinh an toàn nông sản và bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là sản phẩm đã được đăng ký sử dụng trong phòng trừ các loại sâu trên chè và một số loại rau (bắp cải, dưa chuột...). Đối với cây chè, thuốc có tác dụng phòng trừ rầy xanh, bọ xít muỗi, bọ cánh tơ, nhện đỏ ở liều lượng sử dụng là 50 ml/8 lít nước (lượng nước thuốc phun là 500-600 lít/ha).

 

NguyenThiThu thuoc

Thuốc trừ sâu thảo mộc Anisaf – 01
(Tên thương mại:  Anisaf SH-01 2L, Số đăng ký: 3241/11 RR)

 

Các nhà khoa học thực hiện đề tài đã tiếp tục triển khai nghiên cứu ứng dụng của thuốc trên cây cà phê và hồ tiêu. Kết quả cho thấy sản phẩm có tác dụng phòng trừ rệp sáp, hạn chế bệnh vàng lá, tuyến trùng hại cà phê, hồ tiêu ở nồng độ 1%, lượng nước thuốc sử dụng là 3-5 lít/cây, sử dụng theo đường phun cả cây với kết hợp với tưới gốc.

 

Ngoài việc sử dụng thuốc trừ sâu bảo vệ thực vật Anisaf SH-01, các nhà nghiên cứu đồng thời sử dụng các chế phẩm Anisaf SH-01 (1) và Anisaf SH-01 (2) nhằm hỗ trợ quá trình hấp thu dinh dưỡng của cây trồng và cải tạo chất lượng đất.

 

Anisaf SH – 01 (1) là chế phẩm có tác dụng thúc đẩy khả năng điều hòa, chuyển hoá dinh dưỡng của cây trồng, giúp cây hấp thu và sử dụng hợp lý nguồn dinh dưỡng được cung cấp. Đây là yếu tố quan trọng giúp giảm thiểu lượng phân bón phải sử dụng, tạo tiền đề cho việc đạt được mục tiêu vừa đảm bảo cho cây phát triển tốt vừa giảm thiểu được việc sử dụng phân bón hóa học.

 

Trong khi đó, Anisaf SH – 01(2) là chế phẩm có tác dụng thúc đẩy sự phát triển và khả năng hoạt động của hệ vi sinh vật sẵn có trong đất (hệ vi sinh vật bản địa), thúc đẩy vai trò của chúng trong việc tái tạo dinh dưỡng, phục hồi độ phì, chống thoái hóa bạc màu đất, góp phần quan trọng trong việc xây dựng được tính bền vững cho chất lượng đất trồng và qua đó đảm bảo được tính bền vững cho cây trồng.

 

Với mục tiêu canh tác bền vững chè, cà phê, hồ tiêu, bên cạnh việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, nhóm nghiên cứu còn chú ý sử dụng chế phẩm phân bón vi sinh Vixura do Viện công nghệ sinh học sáng chế. Vixura có tác dụng phân hủy phế thải đồng ruộng (rơm rạ, vỏ cà phê, cành chè, cành lá cây hồ tiêu sau khi đốn....) thành mùn để từ đó ủ thành phân bón hữu cơ vi sinh.

 

NguyenThiThu do cao thu nghiem NguyenThiThu do cao doi chung
Độ cao đống ủ thử nghiệm sau 30 ngày Độ cao đống ủ đối chứng sau 30 ngày
NguyenThiThu phan huy thuc nghiem NguyenThiThu phan huy doi chung
Độ phân hủy của đống ủ thử nghiệm Độ phân hủy của đống ủ đối chứng

Một số hình ảnh về ứng dụng chế phẩm Vixura để xử lý phế thải đồng ruộng làm phân bón hữu cơ vi sinh
cho cây chè tại Thị trấn Lộc Thắng, Lâm Đồng

 

Nghiên cứu chế tạo và ứng dụng chế phẩm vi sinh đa chức năng thích hợp cho từng loại cây chè, cà phê và hồ tiêu

 

Ngoài việc phát triển ứng dụng của các loại thuốc bảo vệ thực vật và phân bón vi sinh đã có mặt trên thị trường trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu, các nhà khoa học còn nghiên cứu chế tạo thành công chế phẩm vi sinh đa chức năng (cho cây chè, cây cà phê và cây hồ tiêu) từ các vi sinh vật có ích phân lập từ các mẫu đất trồng.

 

Trên cơ sở quy trình chung để sản xuất chế phẩm vi sinh của Phòng Công nghệ vật liệu sinh học, Viện Công nghệ Sinh học, các chế phẩm được tối ưu hóa thành phần và điều kiện nuôi cấy để đạt mật độ vi sinh vật hữu ích từ 109 CFU/g trở lên sau 1 tuần cấy vào và đã được theo dõi biến động mật độ VSV theo thời gian bảo quản ở nhiệt độ phòng. Khi nghiên cứu khả năng tồn tại của các chủng VSV trong chế phẩm các nhà khoa học nhận thấy chúng đều sinh trưởng và phát triển tốt trong chế phẩm. Chế phẩm có thể bảo quản trong 6 tháng ở nhiệt độ phòng (đạt mật độ theo tiêu chuẩn ngành Nông nghiệp TCN 6167-1997). Hoạt tính sinh học của các chủng cũng không bị mất đi sau thời gian bảo quản.

 

NguyenThiThu chepham

Chế phẩm vi sinh đa chức năng

 

So với các loại phân bón vi sinh nói chung, đây là các loại phân bón vi sinh được đánh giá cao với ưu điểm vượt trội về tính chuyên biệt, phù hợp với mỗi loại đất và cây trồng cụ thể (chè, cà phê và hồ tiêu).

 

Kết quả nghiên cứu và thử nghiệm thành công Đề tài TN3/C01sẽ mang lại khả năng ứng dụng đồng bộ các sản phẩm vi sinh trong canh tác chè, cà phê, hồ tiêu ở Tây Nguyên nói riêng và ở các vùng đất trồng có điều kiện tương tự trong cả nước nói chung (như Tuyên Quang, Tân Cương, Thái Bình...), giúp cải thiện chất lượng đất và nâng cao đáng kể năng suất, chất lượng cây trồng, trực tiếp góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam.

 

 Bích Diệp - VAST.

Trở lại      In      Số lần xem: 3491

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD