Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33334183
Nghiên cứu tăng sự đa dạng về giống đậu tương, phát triển giống đậu tương kháng bệnh gỉ sắt
Thứ bảy, 16-05-2015 | 05:39:22

Trải qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, nhà di truyền học Ram Singh đã cố gắng để lai chéo một giống đậu tương phổ biến ("Dwight" Glycine max) với một cây hoang dã lâu năm có họ hàng với giống cây cỏ dại ở Úc, tạo ra các cây đậu tương tăng sản đầu tiên có khả năng kháng bệnh gỉ sắt, tuyến trùng bào nang và các mầm bệnh khác của cây đậu tương.

 

Singh đang nghiên cứu vềchất mầm nguyên sinh của ngô/đậu tương tại Đơn vị Nghiên cứu Bệnh học và Di truyền thuộc Khoa Khoa học cây trồng của trường Đại học Illinois ở Urbana-Champaign. Đơn vị này là một bộ phận của Chương trình Nghiên cứu Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp Mỹ.

Đậu tương là cây trồng phổ biến thứ hai sau ngô tại Mỹ, với giá trị mang lại hàng năm là hơn 4 tỉ USD. Các giống đậu tương hiện tại của Mỹ rất nhạy cảm với sâu bệnh. Trong số đó, loài tuyến trùng ký sinh được gọi là tuyến trùng bào nang tấn công rễ của cây đậu tương và khiến cây bị thui chột. Bệnh gỉ sắt ở đậu tương - bệnh do nấm gây ra được phát hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 2004, gây thối lá và cuối cùng làm rụng lá của cây.

Từ lâu các nhà khoa học đã biết rằng một số loài (có liên quan đến cây đậu tương) lâu năm hoang dã mang các đặc tính mong muốn có nhiều hy vọng được đưa vào cây đậu tương, Singh nói.

"Có 26 loài Glycine lâu năm mọc hoang dã ở Australia", ông nói. Một loài là Glycine tomentella, đã được quan tâm đặc biệt vì nó có gien kháng bệnh gỉ sắt và tuyến trùng bào nang ở đậu tương. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục thử nghiệm và cuối cùng phát triển một phương pháp điều trị hoóc-môn làm gián đoạn quá trình hủy hoại các hạt giống lai. Ông cũng phát triển một phương pháp nuôi cấy mô để sản xuất một số phôi và một số thực vật từ mỗi hạt giống. Các cây được trồng trong nhà kính, cho phép ra hoa và lai chéo với Dwight.

Singh cuối cùng định vị trên cây Glycine tomentella được gọi là PI 441001 cho các thí nghiệm bởi loài thực vật hoang dã này miễn dịch với bệnh rỉ sắt và tuyến trùng bào nang ở đậu tương. Nó cũng kháng với bệnh thối rễ Phytophthora và có thể chịu mặn và hạn hán.

Singh lưu ý rằng mỗi thế hệ của các giống lai có số lượng nhiễm sắc thể khác nhau, phản ánh sự pha trộn của cây đậu tương và nhiễm sắc thể của loài tomentella. Singh cho biết mục đích là để cô lập từng nhiễm sắc thể của 39 nhiễm sắc thể của loài tomentella, cùng lúc bổ sung thêm 20 cặp nhiễm sắc thể đậu tương. Bằng cách đó, sự phong phú về di truyền của tomentella có thể được giữ lại trong cây đậu tương lai.

Các dòng lai sau này đã đưa gien tomentella vào những cây đậu tương đó, tạo ra các cây đậu tương với 40 nhiễm sắc thể và mang một số các đặc điểm của loài tomentella mong muốn nhất.

Cho đến nay, những nỗ lực này đã mang lại cho cây trồng tính kháng bệnh rỉ sắt, tuyến trùng bào nang hoặc bệnh thối rễ do nấm Phytophthora gây ra ở đậu tương.

Nghiên cứu vẫn còn đang tiếp tục được thực hiện. Kết quả là, các nhà nhân giống đậu tương hiện nay đã tiếp cận được với hàng chục dòng đậu tương mới, từng dòng lại có một vài đặc điểm của các loài thực vật hoang dã của Úc.
 
M.T. - Mard, theo Sciencedaily.
Trở lại      In      Số lần xem: 934

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD