Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  70
 Số lượt truy cập :  34088220
Nghiên cứu vai trò của gia súc trong nhiễm khuẩn E. coli O157: H7
Thứ năm, 15-05-2014 | 08:11:52

Theo nghiên cứu của nhà khoa học Terrance M. Arthur tại Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), trung bình khoảng 2% gia súc chăn thả trên đồng cỏ, hoặc gia súc ăn khẩu phần nhiều năng lượng trong một chuồng nuôi vỗ béo, có thể là những "supershedders" - vật nuôi thải ra một lượng lớn các sinh vật gây bệnh như: Escherichia coli O157: H7 trong phân của chúng.

 

Việc phát thải ra một lượng lớn các vi sinh vật gây bệnh trong phân đang là một mối quan ngại vì nó có thể tăng số lượng khuẩn E. coli O157: H7, sẽ dẫn đường cho vi khuẩn này từ đồng cỏ chăn thả hoặc chuồng nuôi vỗ béo đến các nhà xưởng đóng gói đồ hộp nơi bít-tết, thịt nướng, thịt xay hoặc các sản phẩm thịt bò khác đang được xử lý. Vi khuẩn thường liên quan như O157 là vi khuẩn vô hại đối với gia súc nhưng lại có thể gây ra hiện tượng nôn, co rút dạ dày nghiêm trọng, tiêu chảy hoặc các căn bệnh khác ở người. Những phát hiện từ nghiên cứu của Arthur và các đồng nghiệp của ông tại Trung tâm Nghiên cứu Thịt động vật Roman L. Hruska trực thuộc cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp (ARS) của USDA ở Clay, Nebraska, có thể cung cấp một cơ sở khoa học cho các chiến lược hiệu quả để hạn chế vi khuẩn này phát tán. Arthur và các đồng nghiệp đã thiết kế và thực hiện một nghiên cứu với 6.000 con gia súc nuôi vỗ béo và hơn 13.000 mẫu phân, các mẫu da và thịt.
 
Lần đầu tiên, nhóm nghiên cứu đã cho thấy rằng, ở những con vật nuôi supershedders, sự tràn lan của vi khuẩn O157 có thể xảy ra không chỉ ở đường tiêu hóa mà còn ở toàn bộ hệ thống tiêu hóa còn lại của chúng. Những nhà quản lý các nhà xưởng đóng hộp phải để tâm đến vấn đề đó khi đánh giá các quy trình vệ sinh cơ sở sản xuất của họ. Các nhà nghiên cứu cũng lần đầu tiên xác định được rằng, việc phát thải ra một lượng lớn các vi sinh vật gây bệnh trong phân không giới hạn ở bất kỳ chủng O157 cụ thể nào. Công trình nghiên cứu của họ loại trừ quan điểm cho rằng các chiến thuật được thiết kế để giảm phát thải ra một lượng lớn các vi sinh vật gây bệnh trong phân có thể hướng tới một hoặc các chủng cụ thể. Nghiên cứu của nhóm Arthur đã chỉ ra rằng, để một chiến lược quản lý gia súc được cho là thành công trong giảm truyền lan vi khuẩn O157, thì không quá 20% gia súc mà can thiệp hướng tới sẽ phát thải ra vi khuẩn này ở bất kỳ một thời điểm nào, và sẽ không có gia súc nào phát thải ra vi khuẩn trong phân của chúng.
 
Arthur và điều tra viên của mình, bao gồm các nhà khoa học của ARS là: Joseph M. Bosilevac, James L. Bono, Dayna M. Brichta - Harhay, Norasak Kalchayanand, John W. Schmidt, Steven D. Shackelford và Tommy L. Wheeler, tất cả đều công tác tại Trung tâm Clay đã ghi lại những kết quả nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu có liên quan trong các bài báo khoa học có bình duyệt được xuất bản trong năm 2014, 2013 và 2009 trên tạp chí Applied and Environmental Microbiology. Nghiên cứu này hỗ trợ các ưu tiên của Bộ Nông nghiệp Mỹ về cải thiện an toàn thực phẩm. Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Nghiên cứu nông nghiệp, số ra tháng 5-6 năm 2014.
 
M.T. - Mard, theo ARS.
Trở lại      In      Số lần xem: 1063

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD