Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  29
 Số lượt truy cập :  33342577
Phát hiện mới của NASA về sự hấp thụ điôxít cacbon
Thứ năm, 15-01-2015 | 10:47:56

Một công trình nghiên cứu gần đây do NASA thực hiện đã chỉ ra rằng, những khu rừng nhiệt đới có thể hấp thụ lượng điôxít cacbon nhiều hơn so với nhận định của các nhà khoa học. Nghiên cứu ước tính rằng, trong tổng lượng 2,5 tỷ tấn điôxít cacbon được hấp thụ toàn cầu, các khu rừng nhiệt đới hấp thụ 1,4 tỷ tấn - nhiều hơn so với lượng điôxít cacbon được hấp thụ bởi các cánh rừng ở Canada, Siberia và các vùng phương Bắc khác, gọi chung là rừng taiga.

 

Một công trình nghiên cứu mới của NASA chỉ ra rằng các khu rừng nhiệt đới hấp thụ điôxít cacbon trong khí quyển nhiều hơn các khu rừng ở Alaska, Canada và Siberia.

 

"Đây là một tin tốt, bởi vì sự hấp thụ của các khu rừng phương Bắc đang chậm lại, trong khi các khu rừng nhiệt đới vẫn có thể tiếp tục hấp thụ cacbon trong nhiều năm" - theo David Schimel, người phụ trách công trình nghiên cứu thuộc Phòng thí nghiệm sức đẩy phản lực của NASA, Pasadena, California cho biết.


Hiện tại, trong quá trình quang hợp, rừng và thảm thực vật nói chung đang hấp thụ khoảng 30% lượng khí thải điôxít cacbon do các hoạt động con người. Nếu tỷ lệ hấp thu bị chậm lại, tốc độ ấm lên toàn cầu sẽ gia tăng.


Nghiên cứu của NASA lần đầu tiên đã thiết kế phương pháp so sánh các ước tính lượng điôxít cacbon từ nhiều nguồn với các quy mô khác nhau: các mô hình máy tính về các quá trình sinh thái, các mô hình khí quyển tính ngược thời gian để suy ra nguồn gốc của nồng độ ngày nay (còn gọi là mô hình nghịch đảo), các  hình ảnh vệ tinh và dữ liệu từ các khu rừng trồng thử nghiệm, vv... Các nhà nghiên cứu đã liên kết tất cả các phân tích và đã đánh giá độ chính xác của các kết quả để tái tạo lại các phép đo độc lập trên mặt đất, cho phép họ ước tính được lượng hấp thụ cacbon từ các cánh rừng nhiệt đới bằng các mô hình đã được kiểm chứng và đáng tin cậy nhất.


Theo các tác giả công trình nghiên cứu, câu hỏi về loại rừng nào hấp thụ cacbon nhiều hơn "không chỉ là một sự tò mò trong tính toán", mà nó còn có ý nghĩa lớn đối với sự hiểu biết của con người về các hệ sinh thái trên mặt đất, rằng liệu chúng có thể tiếp tục bù trừ cho lượng khí thải điôxít cacbon do các hoạt động con người hay có thể đã bắt đầu làm trầm trọng thêm sự biến đổi khí hậu.


Lượng khí thải do con người gây ra đang làm tăng thêm lượng điôxít cacbon trong không khí, các cánh rừng trên toàn thế giới sử dụng lượng khí này để tăng trưởng nhanh hơn, làm giảm khối lượng tồn đọng trong không khí. Hiệu ứng này được gọi là sự màu mỡ carbon (carbon fertilization). Theo các nhà nghiên cứu cho biết, nếu tất cả các yếu tố khác là ngang nhau, thì hiệu ứng này sẽ mạnh hơn ở nhiệt độ cao hơn, có nghĩa là hiệu ứng này cao hơn ở các vùng nhiệt đới so với ở các khu rừng phương Bắc.


Nhưng sự biến đổi khí hậu còn làm giảm lưu lượng nước ở một số khu vực và làm cho Trái Đất ấm lên, dẫn đến cháy rừng thường xuyên hơn và rộng hơn. Ở các vùng nhiệt đới, con người can thiệp vào vấn đề này thông qua việc đốt gỗ trong khi phá rừng. Việc đốt cháy đó không chỉ làm ngừng hấp thụ carbon do cây chết, mà còn giải phóng một lượng lớn carbon vào khí quyển do gỗ cháy.


Trong khoảng 25 năm qua, hầu hết các mô hình khí hậu trên máy tính đều cho thấy rằng các khu rừng vĩ độ trung bình ở Bắc bán cầu hấp thụ nhiều carbon hơn các khu rừng nhiệt đới. Kết quả này ban đầu được dựa trên sự hiểu biết về các luồng không khí toàn cầu và nguồn dữ liệu còn hạn chế cho rằng việc phá rừng đã khiến cho rừng nhiệt đới giải phóng lượng khí điôxít cacbon nhiều hơn lượng chúng hấp thụ.


Tuy nhiên việc sử dụng các phép đo điôxít cacbon trước đây cho thấy nhiều mô hình khí hậu đã không phản ánh chính xác các luồng di chuyển carbon bên trên mặt đất. Các mô hình phù hợp hơn với các phép đo khí cầu cho thấy sự hấp thụ cacbon ở các khu rừng nhiệt đới là hơn. Nghiên cứu mới của NASA đã tận dụng được các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học khác để liên kết các dữ liệu khu vực và quốc gia hình thành các tập hợp dữ liệu mạnh toàn cầu. Nghiên cứu này đã làm hài hòa các kết quả ở mọi quy mô, từ các mao mạch của từng chiếc lá, nơi quá trình quang hợp diễn ra, đến phạm vi toàn bộ trái đất, do không khí dịch chuyển điôxít cacbon trên toàn cầu, dẫn đến một giải thích phù hợp với cách chúng ta hiểu như thế nào về quá trình quang hợp và về cả những gì đang xảy ra ở quy mô hành tinh.

 

NASA theo dõi các dấu hiệu về sự sống của Trái đất gồm đất đai, không khí và không gian sử dụng các vệ tinh với các chiến dịch giám sát trên không và trên mặt đất đầy tham vọng. NASA đã phát triển các phương pháp mới để quan sát và nghiên cứu các hệ thống tự nhiên trên Trái đất với các hồ sơ dữ liệu lâu dài và sử dụng các công cụ phân tích máy tính để giám sát rõ hơn về hành tinh của chúng ta đang thay đổi như thế nào. Cơ quan này chia sẻ kiến thức thu được với các cộng đồng quốc tế và hợp tác với các tổ chức tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới, góp phần vào sự hiểu biết và bảo vệ ngôi nhà hành tinh của chúng ta.

 

Đ.B.H - NASATI, Theo  Sciencedaily.

Trở lại      In      Số lần xem: 1138

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD