Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33283041
So sánh tỉ lệ tiêu hóa các axit amin ở đậu tương
Thứ bảy, 11-07-2015 | 05:44:18

Phòng thí nghiệm dinh dưỡng dạ dày đơn Stein đã tiến hành một thí nghiệm để so sánh tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn (SID) của các axit amin và nồng độ của axit amin SID trong bột đậu tương được sản xuất ở các vùng khác nhau tại Mỹ và làm thức ăn cho những con lợn đang phát triển.

 

Theo các nhà nghiên cứu Kelly Sotak-Peper và Hans H. Stein, đậu tương trồng ở miền Bắc nước Mỹ tiếp xúc với ít ngày sinh trưởng hơn và thời gian chiếu sáng của mặt trời ít hơn so với cây đậu tương trồng ở những nơi khác tại Mỹ. Kết quả là, đậu tương trồng ở miền Bắc nước Mỹ cố định ít nitơ hơn và có hàm lượng prôtêin thô thấp hơn so với các giống đậu tương khác của Mỹ. Tuy nhiên, hàm lượng các axit amin cụ thể, axit amin cần thiết là quan trọng đối với các mục đích của việc xây dựng chế độ ăn hơn là hàm lượng của prôtêin thô. Hàm lượng của các axit amin trong đậu tương được trồng ở các khu vực khác của Mỹ chưa được xác định.

Lượng axit amin trong bột đậu tương sẵn có cho lợn cũng phụ thuộc vào khả năng tiêu hóa, nhưng không có nghiên cứu nào so sánh tỷ lệ tiêu hóa của các axit amin trong bột đậu tương được trồng ở các vùng khác nhau của Mỹ. Do đó, một thí nghiệm đã được tiến hành để so sánh tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn (SID) của các axit amin và hàm lượng của axit amin SID trong bột đậu tương được trồng ở các vùng khác nhau trong phạm vi nước Mỹ và làm thức ăn cho lợn đang tăng trưởng.

Hai mươi nguồn bột đậu tương đã được sử dụng trong thí nghiệm. Đậu tương có nguồn gốc từ các nhà máy nghiền trên khắp các khu vực trồng đậu tương của Mỹ. Để phân tích, địa điểm nhà máy nghiền được chia thành 4 khu vực: 1) diện tích trồng ở miền Bắc (Michigan, Minnesota, và Nam Dakota, 4 mẫu phẩm), 2) diện tích trồng ở miền Đông (Georgia, Indiana và Ohio, 6 mẫu phẩm), 3) khu vực trồng ở miền Tây (Iowa, Missouri, và Nebraska, 7 mẫu phẩm), và 4) Illinois (5 mẫu phẩm).

Hai mươi hai con lợn thiến đang tăng trưởng có trọng lượng cơ thể trung bình ban đầu là 25,5 kg được cho ăn một 1 trong 22 chế độ cho ăn. Các chế độ ăn dựa trên tinh bột ngô, sucrose, và bột đậu tương từ bốn vùng trồng. Bột đậu tương là nguồn axit amin duy nhất trong khẩu phần ăn của lợn. Mẫu hồi tràng được thu thập và phân tích để xác định tỷ lệ tiêu hóa prôtêin thô và axit amin hồi tràng.

Không có sự khác biệt nào về SID trung bình của các axit amin thiết yếu và chỉ có những khác biệt nhỏ trong SID trung bình của các axit amin tổng thể trong bột đậu tương có nguồn gốc từ bốn khu vực khác nhau ở Mỹ. Không có sự khác biệt về nồng độ của các axit amin thiết yếu SID, axit amin SID không thiết yếu, hoặc axit amin SID tổng số trong bột đậu tương từ bốn khu vực trồng khác nhau. Các khu vực trồng đậu tương của Mỹ không ảnh hưởng đến giá trị prôtêin của bột đậu tương làm thức ăn cho lợn.
 
K.P. - Mard, theo Stein Monogastric Nutrition Laboratory.
Trở lại      In      Số lần xem: 800

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD