Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33346912
Thuốc trừ sâu: dễ dàng phân hủy sinh học hay tồn tại lâu dài?
Thứ tư, 18-12-2013 | 19:53:50

Các nhà khoa học đang phát triển các kiểu phân loại để có thể phân biệt tốt hơn các thuốc trừ sâu dễ dàng phân hủy sinh học và các thuốc trừ sâu tồn tại lâu dài.

 

biogradable.jpg

Ảnh: Kara- Fotolia.de

 

Để cải thiện quá trình đánh giá về các hậu quả lâu dài của thuốc trừ sâu, các nhà khoa học đã phát triển một phương pháp phát hiện mới và một mô hình có thể cho phép xác định liệu có dư lượng thuốc trừ sâu hay không và chúng có mức độ phân hủy sinh học ở mức nào.

 

Thuốc trừ sâu có một danh tiếng xấu, đó là: chúng gây tổn hại cho môi trường, có tác động tiêu cực đến sự đa dạng của loài và gây ô nhiễm đất. "Điều này có một phần đúng, nhưng cũng có một phần không chính xác. Thuốc trừ sâu có vai trò quan trọng để đạt hiệu quả cho các phương pháp nông nghiệp hiện đại của chúng ta. Và thuốc trừ sâu không nhất thiết phải là thuốc trừ sâu - sự biệt hóa cần thiết trong bối cảnh này. Nói chung, phân hủy sinh học được coi là ưu tiên hàng đầu khi sử dụng thuốc trừ sâu," Giáo sư Tiến sĩ Matthias Kästner, Cục trưởng Cục Công nghệ sinh học Môi trường tại Helmholtz - Trung tâm Nghiên cứu Môi trường - UFZ ở Leipzig, cho biết.

 

Trên toàn thế giới, hiện nay có khoảng 5.000 loại thuốc trừ sâu được sử dụng để làm chất bảo vệ thực vật và kiểm soát dịch hại. Với sự đa dạng về hiệu quả, tác động của chúng đối với môi trường cũng khác nhau. Một số thuốc trừ sâu phân hủy sinh học một cách nhanh chóng, trong khi những thuốc trừ sâu khác mất nhiều thời gian hơn. Và một số trong số chúng tạo ra liên kết hóa học với các thành phần trong đất và tạo thành cái gọi là dư lượng liên kết. Trước đây người ta luôn cho rằng bản thân các dư lượng này là độc hại. Đây là lý do tại sao các thuốc trừ sâu mà hình thành hơn 70% dư lượng liên kết không còn phù hợp hiện nay. "Nhưng chính xác thứ gì bị che dấu đằng sau những dư lượng liên kết này có thể vẫn chưa được đánh giá, ví dụ như có hay không chúng thực sự độc hại hay chúng che dấu cấu trúc hóa học nào," Kastner cho hay.

 

Bằng cách áp dụng cái gọi là phương pháp 13C, Kästner cùng nhóm của mình đã phun thuốc trừ sâu vào các loại đất tham khảo khác nhau và kiểm tra kỹ lưỡng về số phận của chúng. Để đạt được mục đích này, ban đầu họ đánh dấu thuốc trừ sâu được kiểm tra bằng đồng vị cácbon nặng 13C không phóng xạ - và theo dõi nó trong các phân tử sinh học khác nhau với sự trợ giúp của một quang phổ kế khối lượng sau khi hoàn thành một khoảng thời gian thí nghiệm. Theo cách này, các nhà khoa học đã xác định được dư lượng, những thay đổi trong thuốc trừ sâu, và các sản phẩm phân hủy của nó trong đất.

 

Kết quả quan trọng nhất từ nghiên cứu cho thấy - có nhiều nhóm dư lượng liên kết khác nhau. Trong bài báo đăng trên tạp chí “Critical Reviews in Environmental Science and Technology”, các nhà khoa học nghiên cứu UFZ đã tổng hợp kết quả của họ và giới thiệu một hệ thống phân loại và phương pháp mô hình đối với dư lượng liên kết. Đối với loại 1, thì bản thân thuốc trừ sâu hoặc sản phẩm các chất hữu cơ phân hủy của nó lắng đọng trong đất (đất mùn) hoặc bị mắc kẹt bên trong, và có thể về nguyên tắc sẽ được thải ra bất cứ lúc nào. Nếu thuốc trừ sâu trải qua một liên kết hóa học với chất mùn thì dư lượng liên kết được phân vào loại 2, là loại chỉ có thể thải ra với nhiều khó khăn. Dư lượng của cả loại 1 và loại 2 sẽ được phân loại là có liên quan về độc chất. "Tại thời điểm này sẽ cần phải thực hiện một cuộc kiểm tra chính xác để xem xét có thể chấp thuận một loại thuốc trừ sâu mà hình thành các dư lượng như vậy trong đất hay không," Matthias Kästner cho biết. Về dư lượng của loại 3, thì thuốc trừ sâu được phân hủy bởi vi khuẩn và khí carbon chứa trong đó được vận chuyển vào trong sinh khối vi sinh vật. "Đối với các loại dư lượng này, chúng tôi có thể nói là an toàn và xác nhận rằng không có nguy cơ nào hơn nữa,” Kästner khẳng định. Thuốc trừ sâu, mà từ đó các dư lượng liên kết trong đất được đưa vào loại 3, do đó có thể được chấp nhận mà không có rủi ro trong tương lai. Ngược lại, thuốc trừ sâu, mà từ trước đến nay được xem là không có rủi ro, có thể được phân loại là cấp thiết phải sử dụng phương pháp này. Kästner nói: "chỉ khi chúng ta có khả năng phân biệt dư lượng thuốc trừ sâu phân hủy sinh học và dư lượng thuốc trừ sâu có nguy cơ cao, thì chúng ta có thể hành động phù hợp. Đây là lý do tại sao chúng tôi hy vọng rằng phương pháp 13C sẽ được đưa vào hồ sơ của thủ tục phê duyệt trong tương lai. Đây cũng là những gì mà chúng tôi đề nghị với Cục Môi trường Liên bang Đức."

 

Những phát hiện ban đầu từ nghiên cứu UFZ đã được chấp thuận đưa vào quá trình đánh giá của các quan chức thực hiện thủ tục phê duyệt. Như vậy, đối với dư lượng thuốc trừ sâu đã được phê duyệt thì 2,4 axit dichlorphenoxyacetic (gọi tắt là 2,4-D) và 2 metyl axit 4 chlorphenoxyacetic (gọi tắt là MCPA) đều có thể được cho phép. "Để kiểm soát tốt hơn việc phun thuốc trừ sâu và hậu quả môi trường của chúng, chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm," Kästner nhận xét. "Những vấn đề mà chúng ta đã gặp với DDT (dichlorodiphenyltrichloroethane )và atrazine không được lặp lại nữa. Vì vậy, rất quan trọng để hiểu được những gì thực sự xảy ra với thuốc trừ sâu sau khi phun," Nicole Silbermann kết luận.

 

Chi tiết xem http://www.ufz.de/index.php?en=32259

 

Thanh Vân - Dostdongnai, Theo Eurekalert

Trở lại      In      Số lần xem: 5446

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD