Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  19
 Số lượt truy cập :  33335805
Thuốc trừ sâu không phải là thủ phạm duy nhất trong sự suy giảm quần thể ong mật
Thứ năm, 02-04-2015 | 08:17:50

Nghiên cứu thực địa cho thấy, quần thể ong mật không bị tổn hại bởi mức độ tiếp xúc thực tế với loại thuốc trừ sâu phổ biến nhất thế giới.

 

Quần thể giảm là một mối đe dọa lớn đối với ong mật trên toàn thế giới, cũng như đối với thực vật hoang dã và cây trồng mà ong thụ phấn. Trong số các thủ phạm tiềm năng - bao gồm ký sinh trùng, bệnh tật, căng thẳng khí hậu và suy dinh dưỡng – thì nhiều người cho rằng thuốc trừ sâu là nghi phạm chính. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới của Đại học Maryland cho thấy loại thuốc trừ sâu phổ biến nhất trên thế giới không gây hại đáng kể cho quần thể ong mật ở mức độ liều lượng được sử dụng trong thực tế.

Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí PLOS ONE, xem xét tác động của thuốc trừ sâu imidacloprid đến quần thể ong mật trong khoảng thời gian ba năm. Để tìm hiểu ảnh hưởng tiêu cực đáng kể, bao gồm cả giảm mạnh tỷ lệ sống còn vào mùa đông, các nhà nghiên cứu đã cho các bầy ong tiếp xúc ít nhất lượng thuốc trừ sâu lớn hơn ít nhất 4 lần so với hay gặp phải trong hoàn cảnh bình thường. Với lượng thuốc gấp 20 lần mức tiếp xúc bình thường, thì các bầy ong đã gặp phải những hậu quả nghiêm trọng hơn.

Nghiên cứu này không hoàn toàn loại bỏ vai trò của imidacloprid trong nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm của quần thể ong mật. Thay vào đó, kết quả ám chỉ rằng, thuốc trừ sâu là một trong nhiều yếu tố gây ra nhiều vấn đề cho quần thể ong mật trên thế giới.

"Mọi người đang đổ lỗi thẳng thừng cho những loại thuốc trừ sâu này. Nếu bạn tìm kiếm trên Internet, thì đó là thực tế những điều mà tất cả mọi người đang nói", Galen Dively, giáo sư danh dự về côn trùng học tại UMD và là tác giả chính của nghiên cứu cho biết. "Bài nghiên cứu này thì cho rằng không phải, nó không phải là nguyên nhân duy nhất. Nó chỉ góp phần, nhưng còn có một bức tranh lớn hơn".

Imidacloprid thuộc một phân loại thuốc trừ sâu lớn gọi là neonicotinoid, được đặt tên như vậy là bởi vì chúng có nguồn gốc hóa học từ nicotine. Trong thuốc lá và các cây liên quan khác, nicotine hoạt động như một chất phòng thủ, làm ngộ độc những động vật ăn cây. Tuy bản thân nicotine từng được sử dụng để làm một loại thuốc trừ sâu, nhưng nó đã không được ưa chuộng do nó rất độc hại cho con người và phân hủy nhanh chóng trong ánh sáng mặt trời. Neonicotinoid đã được thiết kế nhằm đặc biệt giải quyết những thiếu sót này.

"Imidacloprid là loại thuốc trừ sâu được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Nó không bị hạn chế bởi vì nó rất an toàn", Dively cho biết.

Trong nghiên cứu, Dively và các đồng nghiệp cho các bầy ong ăn phấn hoa có thuốc trừ sâu imidacloprid. Nhóm nghiên cứu cố tình xây dựng một kịch bản xấu nhất, ngay cả ở mức độ phơi nhiễm thấp. Ví dụ như, họ cho bầy ong ăn thực phẩm bị nhiễm độc trong thời gian đến 12 tuần liên tục. Đây là sự một tiếp xúc lâu hơn nhiều so với trong thế giới thực, bởi vì hầu hết các loại cây trồng không nở hoa trong một thời gian kéo dài như vậy.

Ngay cả tiếp xúc trong thời gian lâu hơn như vậy, nhưng liều lượng thực tế của thuốc trừ sâu imidacloprid không gây ảnh hưởng đáng kể ở các bầy ong. Chỉ ở mức độ cao hơn, thì bầy ong mới bắt đầu gặp vấn đề trong việc sinh sản ra ong con khỏe mạnh cũng như gặp vấn đề trong việc sống sót qua mùa đông.

"Rất nhiều người chú ý đến neonicotinoid, nhưng chưa có nhiều dữ liệu thực địa. Nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu đầu tiên để giải quyết lỗ hổng đó, " Dennis vanEngelsdorp, phó giáo sư về côn trùng học tại UMD, người không tham gia vào nghiên cứu, nhận xét. "Không có gì ngạc nhiên khi mức độ cao hơn sẽ làm tổn thương các loài côn trùng. Dù gì thì chúng cũng là thuốc trừ sâu. Nhưng nghiên cứu này cho thấy, neonicotinoids có lẽ không phải là thủ phạm duy nhất với liều lượng sử dụng trong thức tế ở mức thấp hơn".

Dively và vanEngelsdorp đều đồng ý rằng, nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm quần thể ong có thể là do sự cộng hưởng của nhiều yếu tố. Căng thẳng khí hậu có thể đóng vai trò quan trọng và suy dinh dưỡng cũng có thể là một yếu tố khác. Trong đó, tình trạng suy dinh dưỡng là mối lo ngại đặc biệt đối với quần thể ong mật công nghiệp, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Những con ong dành phần lớn thời gian để ăn phấn hoa từ một hoặc hai cây trồng, khiến chế độ ăn của chúng mất cân bằng.

"Ngoại trừ tiếp xúc với imidacloprid, thì bầy ong thử nghiệm của chúng tôi được đối xử rất tốt", đồng tác giả David Hawthorne, phó giáo sư côn trùng học tại UMD cho hay. "Chúng không phải tiếp xúc thêm với bất kỳ yếu tố căng thẳng nào khác có trong thế giới thực như suy dinh dưỡng hoặc nhiều loại thuốc trừ sâu. Bầy ong khi phải đối phó với thêm nhiều áp lực này có thể sẽ nhạy cảm hơn với imidacloprid".

Dively, Hawthorne và các đồng nghiệp đã tìm thấy một số bằng chứng về ảnh hưởng từ ít nhất một sự cộng hưởng. Với liều lượng phơi nhiễm cao nhất, gấp 20 lần so với trong thực tế, thì bầy ong trở nên dễ nhiễm ve Varroa hơn. Đây là ký sinh trùng tấn công các bầy ong mật. Nhiễm ve có thể gây ra một loạt các vấn đề, trong đó có nhiễm virus và nhu cầu phải dùng thêm thuốc trừ sâu khác để kiểm soát bọ ve này tăng lên.

"Đó là một vấn đề nhiều yếu tố, với rất nhiều yếu tố căng thẳng", Dively nhận xét. "Ong mật có rất nhiều sâu hại và bệnh phải đối phó. Tiếp xúc với thuốc trừ sâu là một yếu tố trong nhiều yếu tố. Nó không phải là nhân vật phản diện duy nhất", ông kết luận.

Thanh Vân - Dostdongnai, theo Eurekalert.

Trở lại      In      Số lần xem: 1013

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD