Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  16
 Số lượt truy cập :  33480057
Thương mại lương thực toàn cầu có thể làm giảm bớt tình trạng khan hiếm nước
Chủ nhật, 23-03-2014 | 06:15:37

Thương mại lương thực toàn cầu giúp tiết kiệm lượng nước ngọt trị giá tới 2,4 tỷ đô la Mỹ và đã có một tác động lớn đến tình trạng thiếu nước ở nhiều khu vực. Đây là kết quả của một nghiên cứu mới do Viện Nghiên cứu Tác động khí hậu Potsdam thực hiện.

 

Việc buôn bán lương thực thực phẩm liên quan đến lượng nước được sử dụng cho sản xuất, và lượng nước này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện khí hậu trong khu vực sản xuất, ví dụ Ma-rốc cần 2.700 lít nước để sản xuất 1 kg ngũ cốc, trong khi Đức chỉ sử dụng hết 520 lít. Khi phân tích tác động của thương mại đối với tình trạng khan hiếm nước ở địa phương, các nhà khoa học phát hiện ra rằng điều quan trọng không phải là lượng nước sử dụng mà là nguồn gốc của nước. Trong khi các khu vực của Ấn Độ hay Trung Đông giảm bớt tình trạng khan hiếm nước thông qua việc nhập khẩu lương thực, một số nước ở Nam Âu xuất khẩu hàng nông sản từ các khu vực khan hiếm nước, do đó làm gia tăng tình trạng khan hiếm nước tại địa phương.

Tác giả của nghiên cứu Anne Biewald cho biết: Nông nghiệp chiếm 70% lượng tiêu thụ nước ngọt toàn cầu và do đó ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng khan hiếm nước ở địa phương. Lượng nước sử dụng trong sản xuất hàng nông sản xuất khẩu không giúp xác định được nguồn nước trong khu vực, nhưng chỉ ra lượng nước sử dụng trung bình của quốc gia hay thậm chí toàn cầu.

Khi kết hợp các mô phỏng sinh học của lượng nước sử dụng trong sản xuất nông nghiệp với sử dụng đất cho kinh tế nông nghiệp và các mô phỏng sử dụng nước, lần đầu tiên, các nhà khoa học đã có thể xác định tác động tích cực và tiêu cực đến sự khan hiếm nước thông qua thương mại quốc tế cây trồng, gia súc và thức ăn chăn nuôi. Những tác động này được phân tích ở cấp độ địa phương tại các nước lớn như Ấn Độ hay Mỹ với các vùng khí hậu khác nhau và các điều kiện địa phương khác nhau về nguồn nước. Trước đây, các quốc gia này chỉ có thể được đánh giá thông qua năng suất nước trung bình toàn quốc. Ông Biewald cho biết: “Tình trạng khan hiếm nước địa phương được giảm bớt thông qua việc nhập khẩu hàng hóa nông nghiệp, và do đó giảm được các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại các khu vực của Ấn Độ, Ma-rốc, Ai Cập và Pakistan. Nhưng sự khan hiếm nước trở nên trầm trọng hơn do việc xuất khẩu nông sản tại các khu vực của Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Afghanistan và Mỹ”. Mặc dù thực tế là chỉ riêng Châu Âu đã tiêu tốn lượng nước dành cho sản xuất nông sản xuất khẩu trị giá 3,1 tỷ đô la Mỹ, các nhà khoa học phát hiện ra rằng thương mại quốc tế lương thực trên toàn cầu hiện nay đã giúp con người tiết kiệm được lượng nước giá trị 2,4 tỷ đô la Mỹ.

Nghiên cứu cho thấy thương mại có tác động đáng kể đến sản xuất nông nghiệp. Hiệu quả sản xuất chăn nuôi tại các khu vực hiện nay có sự khác nhau: ví dụ 1 kg thịt bò được sản xuất với lượng thức ăn đầu vào ở Mỹ ít hơn so với ở châu Phi, vì vậy việc thiết lập các vùng chuyên sản xuất một số nông sản và xuất khẩu sang các khu vực khác sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Đồng tác giả của nghiên cứu Hermann Lotze – Campen cho biết: “Thương mại lương thực toàn cầu thực sự cung cấp khả năng làm giảm căng thẳng về nước và giúp việc sử dụng nước trên toàn cầu hiệu quả hơn. Khi nói đến việc thực hiện các công cụ chính sách ảnh hưởng đến thương mại toàn cầu như tự do hóa thương mại, thuế nhập khẩu, trợ cấp nông nghiệp, người ra quyết định cũng phải xem xét các tác động gián tiếp đến nguồn nước”.

Lê Hồng Vân - Mard theo phys.org.
Trở lại      In      Số lần xem: 1269

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD