Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  16
 Số lượt truy cập :  33354204
Tuần tin khoa hoc 346 (23/9 - 29/9/2013)
Thứ sáu, 20-09-2013 | 13:14:46

Cry1F của cây bắp chuyển gen không ảnh hưởng đến ong Cotesia marginiventris

 

Sâu Spodoptera frugiperda có tên tiếng Anh là “Fall army worm”, là đối tượng gây hại chính của cây bắp, đặc biệt tại các vùng sản xuất bắp của Hoa Kỳ và vùng nhiệt đới ở phía Tây bán cầu. Giống bắp biến đổi gen Bt thể hiện protein Cry1F giết sâu này được người ta phát triển vào năm 2011 nhằm quản lý được sự phá hại của chúng. Năm 2006, một quần thể sâu Spodoptera tại Puerto Rico được phát hiện có sự tiến hóa nhằm kháng lại protein Cry1F trên ruộng bắp. Jun-Ce Tian và ctv. thuộc ĐH Cornell đã sử dụng quần thể sâu kháng này để đánh giá ảnh hưởng của Cry1F trên ong ký sinh Cotesia marginiventris đối với sâu “fall army worms”. Họ đã sử dụng sâu kháng toxin Bt để làm giảm ảnh hưởng ăn mồi và tránh những sai số thí nghiệm trong phòng, hoặc khảo nghiệm tính kháng ngoài đồng do toxin Bt. Kết quả cho thấy rằng giống bắp chuyển gen Cry1F không ảnh hưởng trên sự phát triển, sự ký sinh, sự sống sót, khả năng sinh dục, tuổi thọ và khả năng đẻ trứng của ong C. marginiventris trong quá trình chúng ký sinh trên sâu fall army worms đang ăn giống bắp Cry1F. Các nhà nghiên cứu này còn tìm thấy hàm lượng protein Cry1F trong lá bắp giảm có ý nghĩa khi cho sâu tấn công, và không có ong non, kén nhộng hoặc ong trưởng thành nào được tìm thấy. Kết quả nghiên cứu này bác bỏ những ghi nhận trước đây là Bt proteins gây hại cho ong C. marginiventris. Báo cáo khoa học ấy còn chỉ rõ nguyên nhân của “prey-mediated effects” (ảnh hưởng đến sinh vật ăn mồi) do cây chủ đã mất tác dụng đối với sâu kháng được toxin Bt. Xem tóm tắt: http://link.springer.com/article/10.1007/s11248-013-9748-x.

 

Ảnh hưởng của giống bông vải chuyển gen Bt đơn, kháng sâu, đối với côn trùng không chủ đích là ong mật và tằm tơ

 

 Vào năm 2012, Trung Quốc đã trồng được 3,9 triệu hectares giống bông vải biến đổi gen kháng sâu, chiếm 80% tổng số DT trồng bông của quốc gia này. Với xu hướng sử dụng giống cây trồng chuyển gen ngày càng gia tăng, điều quan trọng mà người ta cần biết là ảnh hưởng của nó đối với côn trùng không chủ đích thí dụ như ong mất, tằm như thế nào. Đây là hai đối tượng mang lại nguồn kinh tế lớn của Trung Quốc. Lin Niu và ctv. thuộc ĐH Nông Nghiệp Huazhong đã thực hiện nghiên cứu này. Họ đã sử dụng hạt phấn của hai giống bông vải Bt (một biểu hiện Cry1Ac/EPSPS và một  giống khác biểu hiện Cry1Ac/Cry2Ab) nhằm đánh giá ảnh hưởng của Bt cotton trên ong trưởng thành và ấu trùng tằm tơ. Kết quả của nghiệm thức cho ong và tằm ăn Bt cotton đối với sự sống, sự tiêu thụ có tính chất tích tụ, và các hệ thống miễn dịch của ong mật với nghiệm thức thức ăn Bt cotton diễn ra trong vòng một tuần lễ. Giống như vậy, người ta cho tằm ăn hạt phấn bông Bt. Một sự khác biệt có ý nghĩa về tổng lượng hemocyte đếm được trong con tằm so với nghiệm thức cho ăn bông bình thường ở mật độ có hạt phấn cao nhất (~900 và 8000 hạt phấn/cm2); tuy nhiên mật độ này quá cao so với thực tế trong thiên nhiên. Theo đó, những giống bông vải Bt gen đơn không gây ra bất cứ ảnh hưởng bất lợi nào cho ong mật trưởng thành và tằm tơ. Xem http://www.plosone.org/article/info%3Adoi%2F10.1371%2Fjournal.pone.007%202988.

 

 Nhện đen lớn của Úc Châu có chứa chất giết sâu hại mới trong nông nghiệp.

 

Các nhà nghiên cứu của ĐH Queensland (UQ) tìm thấy một hợp chất tự nhiên trong nọc độc của nhện đen Châu Úc có hiệu lực gấp nhiều hơn bất cứ một thuốc trừ sâu hóa học để diệt sâu hại. Giáo Sư Glenn King và Dr. Maggie Hardy thuộc Viện nghiên cứu Sinh học phân tử của ĐH Quensland đã phân lập được một toxin có tên là OAIP-1, gây chết đối với sâu đục quả bông hoặc giết được mối. OAIP-1 có thể được phát triển thành thuốc trừ sâu thân thiện với môi trường. Xem chi tiết trên tư liệu công bố của Đại Học Quensland, Úc:

 http://www.uq.edu.au/news/index.html?article=26690

 

Các nhà khoa học đã phát hiện cơ chế tự bảo vệ của thực vật chống lại côn trùng

 

 Các nhà khoa học thuộc Boyce Thompson Institute, New York, Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ; Viện Sinh Học của Đại Học Neuchatel, Thụy Sĩ; và Viện Max Planck về Hóa Sinh Học của CH Liên Bang Đức đã thực hiện việc theo dõi lộ trình sinh hóa cơ bản đối với hệ thống tự vệ của cây bắp chống lại rầy mềm tấn công lá, có tên khoa học là Rhopalosiphum maidis, một loài côn trùng chích hút, phá hại bắp nghiêm trọng. Muốn nghiên cứu biến dị trong tự nhiên về tính kháng aphid, các nhà nghiên cứu đã nuôi rầy mền trên 25 dòng bắp có bản chất di truyền vô cùng đa dạng và xem xét sự sinh sản của rầy mềm trên từng dòng bắp ấy. Họ phân tích các mức độ kháng tự vệ có tính chất chuyên biệt trong sản phẩm của cây bắp. Tiếp cận với kết quả di truyền số lượng, họ đã phân lập được một nhóm gen điều khiển tính kháng tự vệ như vậy. Nhóm gen này điều tiết các chất biến dưỡng (metabolites). Họ tìm thấy một tiến trình làm cây bắp gia tăng mức nhạy cảm đối với rầy mềm. Họ đã tìm thấy một enzyme có tính chất không đồng nhất (methyltransferase). Nó chuyển hóa một benzoxazinoid thành một chất khác và gây ra mức độ nhạy cảm với rầy mềm cao hơn. Các giống bắp có một đột biến knockout tự nhiên trong gen làm nhiệm vụ vụ bảo vệ ấy liên kết với enzyme này, thể hiện hàm lượng thấp hơn benzoxazinoid bị methyl hóa và thật ngạc nhiên, tính kháng rầy mềm trở nên mạnh mẽ hơn. Xem bản tin BTI tại http://bti.cornell.edu/new-study-uncovers-plant-defense-mechanisms-against-pests/.

 

Trở lại      In      Số lần xem: 1872

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD