Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  17
 Số lượt truy cập :  33448245
Tuần tin khoa học 369 (03 - 09/03/2014)
Thứ sáu, 28-02-2014 | 13:10:13

Ảnh hưởng của kỹ thuật canh tác đến sự thể hiện Bt Protein trong giống bông vải Bt

 

Nhà khoa học Jikun Huang thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Trung Quốc và ctv. đã nghiên cứu ảnh hưởng của kỹ thuật canh tác trên đồng ruộng đến sản lượng Bt protein trong giống bông vải Bt, với nghiệm thức bố trí trên ruộng và thử nghiệm trong lab. Kết quả cho thấy rằng, sự thể hiện Bt protein tỏ ra khác biệt rất có ý nghĩa giữa các giống. Những giống giống nhau vẫn biểu hiện hàm lượng Bt protein khác nhau trong những làng và giữa các ruộng khác nhau ở cùng một làng. Hơn nữa, những phân tích kinh tế còn cho thấy các kỹ thuật canh tác như bón phân lân và phân kali, bón phân chuồng, đều có ảnh hưởng tích cực đến sự thể hiện của Bt protein trên ruộng nông dân. So sánh với những nghiên cứu trước đây, phân đạm có tác động tích cực đối với sự thể hiện Bt protein, kết quả gần đây nhất cho thấy phân đạm không có ý nghĩa gì cả đối với sự thể hiện của Bt protein. Trái lại, sự thể hiện của Bt protein có tương quan thuận với phân lân, kali, và phân chuồng.

Xem tóm tắt trong tạp chí Transgenic Research

http://link.springer.com/article/10.1007/s11248-013-9775-7.

 

Kết quả di truyền học cho phép tạo ra giống trâu bò kháng bệnh lao (TB)

 

Các nhà khoa học thuộc ĐH Edinburgh so sánh mật mã di truyền của động vật nhiễm bệnh lao (TB-infected animals) với loài trâu bò không bị nhiễm bệnh (disease-free cattle). Họ thấy rằngcó nhiều dấu hiệu di truyền liên quan đến tính kháng bệnh lao của loài bò vẫn được duy trì khá bền vững. Họ đã sử dụng những kỹ thuật gen tân tiến nhất để so sánh các gen này từ con bò sữa Holstein-Freisians khỏe mạnh và bò bệnh. Công trình nghiên cứu như vậy là nội dung kế thừa từ thí nghiệm trước đó cũng do nhóm nghiên cứu này thực hiện. Kết quả cho thấy một vài con bò biểu hiện tính kháng cao hơn bò bình thường mắc bệnh lao do hệ di truyền của nó được kích hoạt. Theo các nhà nghiên cứu ấy, phát hiện gần đây nhất cho phép chứng ta cải thiện việc kiểm soát bệnh lao bằng con đường cải tiến giống có chọn lọc.

Xem  http://www.sciencedaily.com/releases/2014/02/140212093345.htm http://dx.doi.org/10.1038/hdy.2013.137 and http://www.nature.com/hdy/journal/vaop/ncurrent/full/hdy2013137a.html.

 

Làm thế nào muỗi kháng được thuốc DDT và ITNs

 

Các nhà khoa học thuộc Liverpool School of Tropical Medicine đã tìm thấy một đột biến di truyền gây ra tính kháng của muỗi đối với thuốc DDT và pyrethroids. Kết quả nghiên cứu như vậy có thể giúp người ta cải tiến được chiến lược kiểm soát bệnh sốt sét. Đứng đầu nhóm nghiên cứu là Dr. Charles Wondji cùng với cộng sự viên của ông đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để hiểu được rằng làm thế nào tính kháng hoạt động bởi một đột biến tại gen GSTe2. Khi sự kiện xảy ra, những côn trùng phá vỡ được tính kháng với DDT làm nó không còn độc nữa. Bên cạnh đó, họ đã tìm thấy gen này làm côn trùng trở nên kháng với pyrethroids gợi cho chúng ta một khái niệm rằng gen GSTe2 có thể bảo vệ muỗi đối với các loại thuốc trừ sâu đã sử dụng trong ngành y khoa. Họ còn du nhập được gen vào vào cơ thể ruồi đục trái, ruồi đã trở nên kháng DDT và pyrethroids so với đối chứng, điều này khẳng định rằng chính đột biến đơn ấy đủ sức làm cho muỗi trở nên kháng với cả hai loại thuốch DDT và permethrin.

Xem http://genomebiology.com/2014/15/2/R27.

 

Nghiên cứu kích thích tố Deciphers vận chuyển trong cây

 

Một nghiên cứu mới được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc DOE (U.S. Department of Energy) Brookhaven National Laboratory. Họ đã xác định được những cơ chế phân phối kích thích tố trong cây, điều này dẫn đến sự kiện tạo nên cây trồng làm nhiên liệu sinh học bền vững (bioenergy crops), tăng trưởng tăng và giảm bón phân hóa học and reduced need for fertilizer. Đứng đầu là nhà sinh hóa học Chang-Jun Liu, nghiên cứu như vậy đã phân lập được protein cần thiết cho việc tái tạo lại cytokinins từ rễ đến chồi. Cytokinins là kích thích tố sinh trưởng thực vật kích thích sự phát triển của cây. Đối với cây Arabidopsis, các nhà nghiên cứu đã xem xét một họ protein khá lớn có chức năng vận chuyển được gọi là ATP-binding cassette (ABC) transporters, chúng hoạt động như một dạng máy bơm trong tế bào và giữa các tế bào làm vận chuyển các chất hữu cơ cần thiết vào hoặc ra khỏi tế vào thực vật hoặc cơ quan thức vật. Trong khi hoàn thiện việc phân tích đầy đủ sự biểu hiện gen đối với một loạt các ABC transporters như vậy, họ đã thấy rằng gen AtABCG14  thể hiện rất mạnh mẽ trong mạch dẫn truyền thuộc rễ cây. Họ cũng xem xét cây đột biến với gen đột phá (disruptive) AtABCG14, thấy rằng nếu không có gen này, cây sẽ tăng trưởng yếu hơn, thân cây mảnh khảnh hơn, rễ cái ngắn hơn so với cây nguyên thủy. Những thay đổi về cấu trúc như vậy là triệu chứng thiếu cytokinin. Theo Liu, việc điều hòa phân bổ cytokinin bằng cách cắt bỏ hoạt động như vậy của transporter protein có thể là một phương pháp làm tăng năng suất sinh khối và giúp cây chống chịu được stress tạo ra nhiên liệu sinh học hoặc có giá trị phục vụ nông nghiệp.

Xem http://www.bnl.gov/newsroom/news.php?a=11608.

Hình: Nhà sinh hóa học Chang-Jun Liu cùng với Mingyue Gou, Huijun Yang, Yuanheng Cai và Xuebin Zhang.

 

Thông Báo

 

Đại Hội lần thứ Hai về qPCR và Digital PCR

 

Sự kiện “Digital PCR Congress” được tổ chức vào ngày 20-21 tháng Mười 2014; tại London, Vương Quốc Anh.

Xem http://www.globalengage.co.uk/qpcr.html.

Trở lại      In      Số lần xem: 1232

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD