Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  20
 Số lượt truy cập :  33459628
Tuần tin khoa học 379 (13-19/05/2014)
Chủ nhật, 11-05-2014 | 12:16:52

TcLEC2 có thể hỗ trợ quá trình sinh phôi sô ma của ca cao

 

Quá trình sinh phôi sô ma in vitro (somatic embryogenesis: SE) thông qua kỹ thuật nuôi cấy mô là một cách tiếp cận giúp người ta thực hiện nhanh hơn việc phát triển và hình thành cây trồng nhờ khả năng nhân nhanh của kỹ thuật ấy. Đây là phương pháp mới để vi nhân giống cây ca cao (Theobroma cacao L.). Ca cao là cây trồng thuộc nhóm có mức độ dị hợp cao trong quần thể rất cần phương pháp nhân giống vô tính thông qua kỹ thuật ghép và chiết cành để nhân. Người ta áp dụng kỹ thuật sinh phôi tế bào sô ma (somatic embryogenesis) xem như là phương pháp triển vọng đối với ca cao. Nó có thể bị hạn chế bởi hiệu quả sinh phôi kém, với nhiều kiểu gen biến thiên rất phức tạp. Một gen tương đồng của cây Arabidopsis là AtLEC2 cũng được tìm thấy trong ca cao, đó là gen TcLEC2. Nó mã hóa protein có tên khoa học là B3 domain transcription factor biểu hiệu trong quá trình sinh phôi zygotic. Gen TcLEC2 thể hiện cao trong các tế bảo đang phân hóa chức năng hoặc trong những calli của phôi. Sự thể hiện mạnh mẽ của TcLEC2 trong cây ca cao giải thích được tỷ lệ tái sinh cao và sự ổ định của phôi sô ma. Trong khi đó, tử diệp biểu hiện gen TcLEC2 ở mức độ cao với tính chất ưu việt của phôi. Nghiên cứu này xác định gen TcLEC2 trong cả quá trình phát sinh phôi zygotic và somatic. Gen TcLEC2 có thể được người ta sử dụng như một biomarker để phát triển tiến trình SE và thanh lọc các dòng ca cao ưu việt trong ngân hàng gen.

 

Xem http://www.biomedcentral.com/1471-2229/14/106/abstract.

 

OsLOX2 có vai trò chủ chốt quyết định sự sống của hạt giống

 

Duy trì sự sống của hạt trong quá trình bảo quản giống dài hạn luôn luôn là vấn đề mang tính chất toàn cầu của cây lúa. Người ta cố gắng tránh hoặc giảm thiệt hại ấy trong khi bảo quản hạt giống thông qua nội dung cải thiện giống là mục tiêu hiện nay của các nhà chọn giống lúa. Lipoxygenases (LOX) là những enzymes có liên quan đến sự suy giảm hàm lượng các lipids dự trữ trong quá trình hạt nẩy mầm. Tuy nhiên, người ta còn biết rất ít đến ảnh hưởng của chúng đến sự sống của hạt tồn trữ. Trong nghiên cứu này, vai trò của gen OsLOX2 trong cây lúa Nipponbare có tuổi mạ 3 ngày đã được định tính. Các chức năng của nó về tuổi thọ của hạt cũng như sự nẩy mầm đã được nghiên cứu thông qua cách thức biểu hiện gen và phân tử RNA can thiệp (RNA interference: RNAi). Gen OsLOX2 suy giảm thể hiện trong quá trình nẩy mầm. các dòng biểu hiện mạnh mẽ gen OsLOX2 đã tăng theo hạt nẩy mầm trong điều kiện  bình thường và làm thấp mức độ sống của hạt theo tuổi thọ của hạt. Phân tử RNA can thiệp của gen OsLOX2 làm trì hoãn quá trình nẩy mầm và làm tăng tuổi thọ của hạt giống. Các dòng có phân tử RNAi ức chế mạnh mẽ sự thể hiện OsLOX2 hoạt động, làm mất khả năng nẩy mầm thgeo thời gian tồn trữ. OsLOX2 gia tăng theo nhịp độ tăng trưởng của hạt giống nẩy mầm. Tuy nhiên, nó cũng làm giảm tuổi thọ của hạt giống khi tồn trữ. Ức chế được OsLOX2 có thể giúp người ta  quản lý tốt việc tồn trữ hạt giống lúa trong kho nhờ kéo dài tuổi thọ của hạt.

 

Xem  http://link.springer.com/article/10.1007/s11248-014-9803-2/fulltext.html.

 

Lúa có thể sinh ra chất trừ sâu hại Orysata

 

 

 

Gần đây người ta đã nghiên cứu hoạt tính của chất trừ sâu hại có tên là Orysata, một hợp chất lectin của cây lúa (Oryza sativa L.), thuộc họ “jacalin-related lectins”. Hiệu lực của Orysata trong việc kiểm soát côn trùng có hại đã được nghiên cứu với 3 đối tượng chính như sau: sâu xanh (Spodoptera exigua) và hai loài rầy mềm: rầy xanh trên cây đào (Myzus persicae), rầy mềm trên cây đậu Hà Lan (Acyrthosiphon pisum). Thuốc Orysata còn được tìm thấy trên cây thuốc lá.  Người ta chế ra một loại thức ăn bằng lá cây thuốc lá có hàm lượng chất Orysata tái tổ hợp ở mức độ cao; rồi cho côn trùng ăn. Các giai đoạn ấu trùng của sâu S. exigua chưa bị ngộ độc đều chết một cách có ý nghĩa, ấu trùng bụ suy giảm khối lượng thân và sự phát triển bị chậm lại. có chứa Orysata đã làm tăng tỷ lệ chết của rầy xanh trên cây đào một cách ý nghĩa. Đối với rầy mềm trên cây đậu Hà Lan, tỷ lệ ấu trùng chết cao ở hàm lượng lectin thấp, với mức ước đoán là 50% chết tại ngưỡng 79 μg/ml. Chất Orysata có hoạt động giết sâu mạnh và có thể được xem như một ứng cử viên đáng giá cho cả côn trùng thuộc dạng ăn và dạng hút dinh dưỡng.

 

Xem http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0168945214000211.

 

Dòng chảy của gen từ giống đậu nành HT đến đậu nành truyền thống của Trung Quốc

 

Các nhà khoa học thuộc Viện Hàn Lâm KHNN và Viện Hàn Lâm KHNN Nhiệt đới Trung Quốc đã định tính được dòng chảy transgen từ giống đậu nành kháng thuốc cỏ (HT) mã số AG5601 đến các giống đậu nành truyền thống. Họ đánh giá tỷ lệ lai chéo 36 giống đậu nành truyền với với giống đậu nành AG5601. Khoảng cách hoạt động của gen HT (cp4 EPSPS) của giống AG5601 đến giống đậu nành trồng trọt Zhonghuang13 được xác định bằng cách sử dụng những con lai được thu hoạch từ 8 hướng với những nghiệm thức khoảng cách khác nhau. Tương quan giữa dòng chảy của gen giống AG5601 với sự kiện ngày trổ hoa đồng loạt hoặc hoạt động của côn trùng làm nhiệm vụ giao phấn (insect pollinators) trên mỗi giống được phân tích theo hàm tuyến tính. Có 32 trong 36 giống đậu nành thử nghiệm có con lai sống sót sau khi phun hai lần thuốc diệt cỏ glyphosate. Có 49 trong 41.679 con lai dị hợp tử được minh chứng chống chịu được thuốc cỏ glyphosate. Khoảng cách xa  nhất có hiệu lực lai chéo giữa AG5601 và giống Zhonghuang13 là 15 mét. Phân tích tuyến tính cho thấy có tương quan thuận giữa tần suất lai chéo và ngày trổ hoa đồng loạt hoặc số côn trùng đóng vai trò pollinator. Theo đó, các nhà khoa học đã khuyến cáo rằng: khi giống đậu nành HT được phóng thích trên đồng ruộng, chúng cần cần cách ly chúng với giống đậu nành truyền thống về không gian và thời gian canh tác, sao cho lệch pha trổ bông.

 

Xem http://link.springer.com/article/10.1007/s11738-014-1539-3.

 

Tế bào gốc từ người trưởng thành

 

Hai nhóm nghiên cứu độc lập của Đại Học Seoul và Viện nghiên cứu tế bào gốc New York đã ghi nhận rằng họ đã làm ra thành công các dòng tế bào gốc có tính chất embryonic từ những phôi được dòng hóa (embryos cloned) của tế bào người. Nhóm nghiên cứu thứ nhất thuốc ĐH Seoul cho rằng trong tháng TƯ tế bào gốc được phát sinh sử dụng nhân (nuclei) của hai người đàn ông khỏe mạnh. Nhóm thứ hai thuộc New York phóng thích tế bào từ DNA của một phụ nữ trưởng thành mắc bệnh tiểu đường type 1. Họ còn có thể phân biệt tế bào gốc với tế bào sản sinh ra insulin.  Báo cáo như vậy có thể gợi ra cách sản xuất những mô chuyên biệt thay thế  được cho người bệnh.

 

Xem http://www.nature.com/news/stem-cells-made-by-cloning-adult-humans-1.15107

 

Kỹ thuật "FISH" trong chọn tạo giống heo biến đổi gen

 

Trong phát triển đàn heo giống transgenic, loài gia súc duy nhất có thể chuyển transgene cho thế hệ sau để chọn lựa. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa có những chương trình thanh lọc ra sao để xác định cá thể tương thích với nội dung chọn giống. Do vậy, một chương trình thanh lọc có tính chất “pre-breeding” phải được xác định. Nó sẽ giúp cho việc phát triển đàn heo transgenic hiệu quả và kinh tế hơn. Chương trình thanh lọc giống 3 bước đối với giống heo nọc transgenic được người ta đề nghị để chọn giống heo thông qua kỹ thuật “lai in-situ bằng đánh dấu huỳnh quang” viết tắt là FISH (fluorescence in situ hybridization). Bước một, đánh giá kiểu hình kết hợp với FISH nhằm xác định các con lợn đực transgenic. Bước hai, các cá thể heo có chất lượng tinh dịch và tinh trùng transgenic tốt được phân lập, thông qua phương pháp xét nghiệm truyền thống tinh dịch và kỹ thuật FISH. Phôi thụ tinh in vitro được chuyển qua giai đoạn ba để thanh lọc tiếp: xác định những cá thể có khả năng sản sinh ra phôi transgenic bằng kỹ thuật FISH. Những giống lợn đực “non-transgenic” không có khả năng sản sinh ra tinh trùng transgenic hoặc phôi transgenic sẽ bị loại. Chỉ có giống lợn đực sản sinh ra con lai transgenic được giữ lại phục vụ cho chọn giống và tăng đàn.

 

Xem  http://link.springer.com/article/10.1007/s11248-014-9801-4/fulltext.html.

 

Thông Báo

 

ICAFS 2014 in Singapore

 

Hội Nghị Quốc Tế về An Ninh Lương Thực ch Châu Á (ICAFS) 2014 sẽ được tổ chức vào ngày 21-22 tháng Tám 2014 tại Grand Copthorne Waterfront Hotel, Singapore. Tiêu đề chính của hội nghị là Towards Asia 2025: Policy and Technology Imperatives

 

Xem: http://www.rsis.edu.sg/nts/article.asp?id=266&prev=Event&pyear=Upcoming

Trở lại      In      Số lần xem: 1514

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD