Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  44
 Số lượt truy cập :  34088837
Tuần tin khoa học 382 ( 02 - 08/06/2014)
Thứ bảy, 31-05-2014 | 06:33:07

Các gen Memory cho phép cây bắp thích nghi với stress khô hạn

 

Sự ghi nhớ stress (stress memory) là khả năng đặc biệt của cây làm thay đổi sự đáp ứng sinh lý và phiên mã của chúng đối với stress trước khi chúng bị gây hại. Trong cây Arabidopsis thaliana, nó thể hiện sự hành động có tính chất kinh nghiệm khi bị thiếu nước (dehydration), biểu hiện tập tính phiên mã (transcriptional behavior). Điều này cho thấy khả năng ghi nhớ của cây đối với stress lần trước. Một vài gen phản ứng với stress lần đầu tiên bằng cách thay đổi phiên mã của chúng nhưng cung cấp một phản ứng khác đối với những stress xảy ra sau đó. Sự kiện ấy được gọi là 'memory genes'. Tuy nhiên, hiện tượng như vậy vẫn chưa được biết một cách cặn kẽ thí dụ như khả năng đáp ứng theo ghi nhớ (memory responses) có trong thực vật hạt kín (angiosperms). Những đáp ứng về phiên mã của cây bắp (Zea mays L.) khi bị stress do khô hạn được người ta đem ra so sánh với những phản ứng của cây bị stress lần đầu tiên. Có bốn thành phần của việc đáp ứng phiên mã khác nhau như những quan sát trên cây A. thaliana được khám phá trước đó. Đây là minh chứng cây đơn tử diệp và song tử diệp đều có khả năng ghi nhớ như nhau đối với stress do mất nước. Các thành phần phiên mã (transcription patterns) đều chỉ ra rằng đặc điểm của những gen đáp ứng lại với stress khi có hiện tượng lập đi lập lại stress ấy, rất khác với đặc điểm phản ứng với stress khởi điểm. Điều ấy khẳng định sự kiện ghi nhớ được stress (stress memory) là một kiểu hình phức tạp – hệ quả của những đáp ứng có tính chất tổng hợp trong lộ trình truyền nhiều tín hiệu (multiple-signaling pathways).

 

Xem  http://www.biomedcentral.com/1471-2229/14/141/abstract.

 

Bông vải cải tiến tính chống chịu khô hạn thông qua sự thể hiện hoàn toàn của gen TaMnSOD

 

Bông vải (Gossypium hirsutum L.) được xem như là cây trồng có khả năng chống chịu khô hạn tốt. Tuy nhiên, tính chống chịu ấy thay đổi rất lớn tùy thuộc vào giống cụ thể. Do đó, người ta cần phải cải tiến tính trạng chống chịu khô hạn cho bông vải. Một gen từ cây Tamarix androssowii, loài thực vật cực kỳ chịu hạn (hình) ở Xinjiang, Trung Quốc, được người ta nghiên cứu như một giải pháp tích cực cho mục tiêu cải tiến ấy. Trong một nghiên cứu trước đây, cây poplar biến đổi gen biểu hiện mạnh mẽ gen của T. androssowii, TaMnSOD, đã minh chứng tính chống chịu khô hạn được cải tiến. Theo những kết quả trước đây, TaMnSOD được người ta chuyển nạp vào cây bông vải và thể hiện gen thành công sáng tạo ra các dòng transgenic độc lập nhau. Các dòng transgenic này và cây đối chứng được trồng và đánh giá kiểu hình. Người ta so sánh những thông số liên quan đến sinh hóa và sinh lý trong điều kiện bị stress do thiếu nước trong tủ nuôi trồng nhân tạo (growth chamber). Các tính trạng hình thái học cũng được quan sát sau khi phục hồi bằng cách tưới trở lại. Những cây transgenics đã cải thiện được hoạt tính của enzyme đóng vai trò chống sự ôxi hóa (antioxidant enzyme) và tình trạng nguyên vẹn của màng tế bào (cell membrane integrity). Các tính trạng khác như quang hợp thuần (net photosynthesis), sự đóng mở khí khổng, và tốc độ thoát hơi nước cũng tăng có ý nghĩa trong cây transgenic. Bông vải chuyển nạp gen còn tăng sinh khối, rễ, lá so với giống nguyên thủy ở giai đoạn sau 2 tuần hồi phục.

 

Xem  http://link.springer.com/article/10.1007/s11032-014-0015-5/fulltext.html.

 

Giống đậu nành có hàm lượng oleic cao thông qua đột biến gen

 

Các nhà khoa học của Cellectis đã ghi nhận dòng đậu nành có hàm lượng oleic acid cao, bài đăng trên tạp chí Plant Biotechnology. Đậu nành có hàm lượng oleic cao là kết quả của công nghệ di truyền với gen mục tiêu liên quan đến bốn alen của hai gen mã hóa enzyme desaturase làm hàm lượng acid béo không no (FAD2-1A FAD2-1B). Những enzyme phân cắt chuỗi trình tự DNA được chuyển nạp thành công cho thấy có những trình tự DNA bảo tồn trong cả hai gen ấy. Bốn dòng đậu nành trong tổng số 19 dòng chuyển nạp gen thể hiện tốt enzyme làm biến đổi FAD2-1A FAD2-1B như mong muốn, khi tách chiết DNA từ lá. Có 3 trong 4 dòng ấy di truyền được gen đột biến FAD2-1 sang các thế hệ tiếp sau đó. Cây đột biến đối với cả hai gen đều có thể làm thay đổi phổ acid béo biểu hiện ra (fatty acid profile), và hàm lượng oleic acid tăng từ 20 lên 80%, hàm lượng linoleic acid giảm từ 50 còn 4%. Cây đột biến chỉ mang những đột biến mong muốn và những enzyme có tính chất nhân tạo chưa từng thấy. Kết quả cho thấy rằng những enzyme phân cắt trình tự DNA nhân tạo có thể được sử dụng để có được gen đích cải biên được cây trồng theo kế hoạch lai tạo giống mới.

 

Xem  http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/pbi.12201/abstract http://www.cellectis.com/sites/default/files/pr_fad2_en.pdf.

 

Sâu xanh bài tiết ra chất kích hoạt sự thể hiện gen tự vệ của cây cà chua

 

 

Thực vật có chức năng tự bảo vệ chống lại côn trùng ăn lá, thân, rễ (herbivores). Sâu hại làm tổn thương và làm giảm sản phẩm chất quang hợp. Chức năng tự bảo vệ ấy sẽ giúp cây tổng hợp chất tự vệ hơn là tăng trưởng và phát dục. Do vậy, điều quan trọng là cây phải có khả năng cực kỳ nhạy cảm với cơ chế gây tổn thương khi bị sâu ăn lá (herbivores). Chất dịch tiết ra khi sâu ăn (oral secretions) đối với loài sâu caterpillars (Malacosoma spp) kích thích cây tạo ra các chất elicitors trong phản ứng lại stress sinh học, giống như hợp chất hữu cơ dễ bay hơi VOCs (volatile organic compounds). Tuy nhiên, rất ít công trình nghiên cứu cho thấy những elicitors như vậy có trong tuyến nước bọt hoặc bất cứ cơ quan nào khác giúp sâu ăn, ví dụ như VEG (ventral eversible gland). Trong nghiên cứu này, chất bài tiết VEG của sâu xanh “beet armyworm” tên khoa học là Spodoptora exigua caterpillars được giám định về xuất hiện các elicitors mà những phân tử ấy có thể kích thích hệ thống tự vệ của cây. Hoạt tính của enzyme có liên quan đến khả năng tự vệ, các mức độ thể hiện phân tử transcript liên quan đến gen có chức năng tự vệ và hợp chất VOC thải ra trong cà chua bị sâu S. exigua caterpillars gây hại. Người ta so sánh trường hợp này với trường hợp cà chua bị sâu hại mà không có VEG (VEGA). Cây cà chua bị hại bởi VEGI caterpillars thể hiện một hàm lượng cao hơn rất nhiều lần các enzyme có liên quan đến yêu cầu tự vệ sâu VEGA caterpillars. Sự điều hòa thể hiện gen theo hướng up-regulation trong các gen mã hóa jasmonic acid cũng như các gen sản sinh ra terpene VOCs trong cây bị sâu hại VEGI caterpillars. Điều này dẫn đến việc chất bay hơi VOCs tăng. Hơn nữa, chất tiết ra khi sâu ăn đối với loài VEGA caterpillars ít hiệu quả hơn trong kích thích sự thể hiện gen tự vệ. Các chất bài tiết VEG của sâu xanh có chứa những elicitors của phản ứng tự vệ trong cây cà chua.

 

Xem  http://www.biomedcentral.com/1471-2229/14/140.

 

Nấm hương (Shiitake) tổng hợp nano vàng

 

Gold nanoparticles có nhiều ứng dụng trong nghiên cứu phương pháp chữa bệnh ung thư, và công nghệ thông tin. Người ta đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để tổng hợp nên các nanoparticles như vậy. Nhưng nó rất đắc tiền và đòi hỏi các hợp chất hóa học có hại. trong các nghiên cứu trước đó, người ta sử dụng nhiều loài nấm có khả năng khử vàng từ hợp chất nguyên thủy là auric compounds để tạo ra các nanoparticles. Nấm hương dược liệu (medicinal shiitake mushroom với tên khoa học là Lentinus edodes) (hình) đã được người ta chú ý theo mục tiêu như vậy. Nghiên cứu đã tập trung vào xem xét khả năng của nấm shiitake trong quá trình khử auric chloride thành vàng và tích tụ các vật chất ở trạng thái nanoparticles trong nấm cũng như xác định những enzymes có trong tiến trình ấy. Nhiều phương pháp được xét nghiệm như transmission electron microscopyX-ray fluorescence để nghiên cứu hoạt tính của nấm. Khi nấm phát triển ngập chìm trong môi trường chloroauric acid (HAuCl4), thì colloidal gold tích tụ dưới dạng electron-dense, và những phần tử hình cầu (spherical particles) sẽ xuất hiện trên bề mặt cũng như ở bên trong của nấm: khuẩn ty, bào tử. Kích thước của những gold colloids (giao chất) biến thiên 5 - 50 nanometers. Người ta còn tìm thấy các enzyme của nấm như enzymes laccase, tyrosinase, và Mn-peroxidase là những chất khử auric chloride từ chloroauric acid.

 

Xem http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0168165614001990.

 

Thông Báo

 

2014 BIO International Convention

 

Hội Nghị Quốc tế BIO 2014 sẽ tổ chức vào ngày 23-26 tháng Sáu 2014, tại San Diego Convention Center, San Diego, California; Hoa Kỳ

 

Xem chi tiết  http://convention.bio.org/2014/.

 

Trở lại      In      Số lần xem: 1001

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD