Chào mừng Quý độc giả đến với trang thông tin điện tử của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam

Tin nổi bật
Thành tích

Huân chương Ðộc lập

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Huân chương Lao động

- Hạng 1 - Hạng 2 - Hạng 3

Giải thưởng Nhà nước

- Nghiên cứu dinh dưởng và thức ăn gia súc (2005)

- Nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống lúa mới cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa (2005)

Giải thưởng VIFOTEC

- Giống ngô lai đơn V2002 (2003)

- Kỹ thuật ghép cà chua chống bệnh héo rũ vi khuẩn (2005)

- Giống Sắn KM 140 (2010)

Trung tâm
Liên kết website
lịch việt
Thư viện ảnh
Video
Thiết lập chuỗi giá trị nông sản thông minh và an toàn tại Việt Nam Cà chua bi

Thống kê truy cập
 Đang trực tuyến :  15
 Số lượt truy cập :  33457671
Tuần tin khoa học 387 (7-13/7/2014)
Thứ tư, 09-07-2014 | 08:18:46

Phản ứng của đậu phụng đối với sự thiếu nước nhờ ABA (Abscisic Acid)

 

Đậu phụng (Arachis hypogaea) được sản xuất trên những vùng thường bị thiếu nước, bị ảnh hưởng bởi khô hạn. Người ta biết rất ít về cơ sở phân tử trong phản ứng chống chịu khô hạn của đậu phụng. Tuy nhiên, trong những nghiên cứu trước đây, người ta thấy khí khổng đậu phụng đóng lại nhanh chóng trong khi bị stress do khô hạn và trong phản ứng này có liên quan đến hormone thực vật abscisic acid (ABA). Nhiều gen cũng biểu hiện sự thay đổi. Muốn xác định các gen như vậy trong phản ứng của đậu phụng đối với khô hạn, hoạt động của gen biểu hiện ở lá, rễ và thân cây đậu phụng non dưới điều kiện stress do khô hạn được thẩm định với hai nghiệm thức có và không có ABA. Mẫu để phân tích được thu thập vào giai đoạn bốn lá, giai đoạn trổ bông và giai đoạn đậu có võ bao (podding). Có 621 gen được ghi nhận bị kích hoạt nhanh trong điều kiện thiếu nước. Có 2.665 gen bị kích hoạt nhanh bởi thiếu nước + xử lý ABA trong khi đó có 279 gen chồng lấp nhau giữa thiếu nước so với thiếu nước + xử lý ABA. Nhiều gen bị kích hoạt khi phản ứng với thiếu nước + có hoặc không có xử lý ABA. Kết quả nhấn mạnh rằng cớ chế chính phản ứng với khô hạn trong chức năng của cây đậu phụng là phản ứng phải lệ thuộc vào lọ trình biến dưỡng ABA.

 

Xem http://www.biomedcentral.com/content/pdf/1472-6750-14-58.pdf.

 

Chiến lược kiểm soát luân phiên đối với bệnh Crown Gall trên cây nho thông qua chất trích trên cây

 

Bệnh crown gall trên cây nho do vi nấm Rhizobium vitis là nguyên nhân gây ra thiệt hại về  kinh tế đáng kể cho sản xuất nho. Các báo cáo gần đây cho thấy chất trích bằng nước từ thân cây biểu hiện hoạt tính của chất chống lại vi sinh vật (antimicrobial activity). Các nhà nghiên cứu bây giờ khảo sát chất trích này (water-based crude extracts) từ cây Vicia villosa (tiếng Anh là hairy vetch) và cây Lolium perenne (tiếng Anh là ryegrass) để xem xét hoạt tính của antimicrobial chống lại R. vitis trong điều kiện thí nghiệm ở nhà lưới và khả năng của chúng làm kích hoạt các gen có liên quan đến tự vệ của cây nho (Vitis spp.). Với số lượng 100 ml chất ly trích (125, 250 và 500 g/L), người ta chuẩn bị các chồi thân và rễ nho còn tươi nguyên. Những mẫu ly trích ấy được nhúng trên thân nho bị cắt (grapevine cuttings) cứ sau mỗi 10 ngày một lần nhúng Chất ly trích như vậy biểu hiện ảnh hưởng chống khuẩn một cách đáng kể. Kết quả cho thấy thông qua sự giảm mức độ hình thành ghẻ (gall) trên nhánh nho có xử lý nước trích so với nhánh nho không xử lý. Sự thể hiện của nhiều gen có chứng năng tự vệ của cây cũng được nghiên cứu với chất trích của cây hairy vetch và cây ryegrass, chúng có phản ứng kích hoạt các gen tự vệ giống như trên. Theo đó, chất trích từ những cây trồng đã khảo nghiệm như vậy có thể hoạt động như những phân tử inducers giúp cây tự bảo vệ theo biện pháp sinh học vô cùng hiệu quả.

 

Xem http://www.pomics.com/yun_7_3_2014_133_141.pdf

 

Bí mật gen Bem46

 

 Gen bem46 được người ta tìm thấy trong hầu hết sinh vật có trong tự nhiên với tế bào có một nhân, bao gồm cả vi nấm (fungi). Người ta gọi nó bằng thuật ngữ là "known-unknown gene" (gen biết nhưng chưa được biết) vì chức năng của nó vẫn chưa hoàn toàn được biết rõ, cho dù đây là một gen được người ta đã tìm thấy. Hiện nay, các nhà khoa học thuộc Đại Học Kiel, CHLB Đức lần đầu tiên công bố liên kết giữa  bem46 và quá trình tăng trưởng – phát triển của vi nấm. "Theo nghiên cứu hiện nay, chúng tôi đã thiết lập được một chủng nòi (strain) gây knock-out gen bem46 từ vi nấm Neurospora crassa. Đột biến bem46 này biểu hiện sự nẩy mầm của ascospore thấp hơn so với loại hình ban đầu (wild type), nhưng nầy mầm cao hơn rất nhiếu so với sự thể hiện gen bem46 trước đó và các dòng RNAi ", Giáo Sư Kempken đã nói như vậy. Ông là khoa học gia cao cấp của nhóm nghiên cứu. Sự nghiên cứu lại các chủng (strain) nấm “RNAi N. crassacho thấy có sự hiện diện của hai loại hình (types) phân tử mRNA có tính chất lựa chọn từ bem46. Sự thể hiện của hai trong số phân tử mRNA có tính chất chọn lứa (alternative) dẫn đến sự mất khả năng nẩy mầm của ascospore (nang bào tử). Kết quả chứng minh rằng khả năng nẩy mầm thấp trong các dòng RNAi không phải do cách điều tiết theo kiểu down của bem46 (downregulation), mà do các phân tử mRNAs có tính chất chọn lựa. Các nhà khoa học còn nghiên cứu cách sản sinh của ba chủng nòi nấm N. crassa ở những giai đoạn phát triển khác nhau.

 

Xem: http://www.uni-kiel.de/pressemeldungen/?pmid=2014-183-pilzgen&lang=en.

 

Thịt heo transgenic gây ra hệ thống miễn dịch gan của chuột cải thiện

 

Một chiến lược cải thiện sức khỏe con người và cải thiện dinh dưỡng thông qua động vật biến đổi gen giàu omega-3 acid béo không bảo hòa (unsaturated fatty acid). Tuy nhiên, có một thách thức lớn trong lĩnh vực đánh giá an toàn thực phẩm (food safety). Do đó, chức năng và sự an toàn của thịt heo transgenic giàu omega-3 fatty acids đã được người ta tiến hành đánh giá so sánh với thịt heo bình thường làm đối chứng. Chuột được thí nghiệm và cho ăn thịt heo non-transgenic và thịt heo transgenic. Người ta thực hiện nhiều xét nghiệm sinh học trong phòng thí nghiệm bao gồm cả những chỉ tiêu sinh hóa huyết học, số vi khuẩn, histopathology (mô bệnh học) và khối lượng cơ thể. Kết quả cho thấy thịt heo transgenic và non-transgenic không ảnh hưởng một cách có ý nghĩa trên chỉ tiêu sinh hóa máu và số lượng vi khuẩn đếm được trong ruột và phân thải ra. Tuy nhiên, các hệ thống miễn dịch của gan được cải thiện đáng kể trong nghiệm thức chuột ăn thịt heo transgenic.

 

Xem: http://link.springer.com/article/10.1007/s11248-014-9796-x/fulltext.html

 

Pleurotus ostreatus phân giải Aflatoxin B1 trong thân rạ lúa bị nấm mốc

 

Các nhà nghiên cứu hiện đang chú ý đến khả năng phân giải aflatoxin B1 của chủng nòi (strain) của Pleurotus ostreatus (hình) trên rơm rạ lúa bị mốc (moldy rice straws). Aspergillus flavus, một nấm mốc ký sinh trên rơm rạ, tạo ra độc tố Aflatoxin B1 (AFB1). Độc tố này rất nguy hiểm cho trâu bò trong quá trình tiêu hóa của chúng. Trái lại, nấm mốc Pleurotus ostreatus có khả năng phân giải nhiều hợp chất nguy hiểm khác có trong môi trường, kể cả AFB1. Nhiều chủng nòi khác nhau của A. flavus được người ta chủng vào rơm rạ để sản sinh AFB1. Sau đó, nhữ của P. ostreatus. Sự phát triển của mức độ thoái hóa AFB1 được đánh giá thông qua sắc ký lỏng cao áp HPLC (high performance liquid chromatography). Những chủng nòi P. ostreatus cho thấy khả  năng của chúng tăng trưởng nhanh trên rơm rạ, bên cạnh khả năng phân giải AFB1. Phân giải cao nhất đối với AFB1 được ghi nhận trên mẫu rơm rạ có chủng nòi GHBBF10 của P. ostreatus. Chủng nòi này có thể được khai thác sau này với nồng độ phân giải khuyến cáo đối với AFB1 gây tạp nhiễm và mốc trên rơm rạ.

 

Xem: http://link.springer.com/article/10.1007/s13205-014-0228-7/fulltext.html

 

Trở lại      In      Số lần xem: 2340

[ Tin tức liên quan ]___________________________________________________
  • Bản đồ di truyền và chỉ thị phân tử trong trường hợp gen kháng phổ rộng bệnh đạo ôn của cây lúa, GEN Pi65(t), thông qua kỹ thuật NGS
  • Bản đồ QTL chống chịu mặn của cây lúa thông qua phân tích quần thể phân ly trồng dồn của các dòng con lai tái tổ hợp bằng 50k SNP CHIP
  • Tuần tin khoa học 479 (16-22/05/2016)
  • Áp dụng huỳnh quang để nghiên cứu diễn biến sự chết tế bào cây lúa khi nó bị nhiễm nấm gây bệnh đạo ôn Magnaporthe oryzae
  • Vai trò của phân hữu cơ chế biến trong việc nâng cao năng năng suất và hiệu quả kinh tế cho một số cây ngắn ngày trên đất xám đông Nam Bộ
  • Tuần tin khoa học 475 (18-24/04/2016)
  • Vi nhân giống cây măng tây (Asparagus officinalis L.)
  • Thiết lập cách cải thiện sản lượng sắn
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo hạn hán cho Việt Nam với thời hạn đến 3 tháng
  • Liệu thủ phạm chính gây nóng lên toàn cầu có giúp ích được cho cây trồng?
  • Tuần tin khoa học 478 (09-15/05/2016)
  • Sinh vật đơn bào có khả năng học hỏi
  • Côn trùng có thể tìm ra cây nhiễm virus
  • Bản đồ QTL liên quan đến tính trạng nông học thông qua quần thể magic từ các dòng lúa indica được tuyển chọn
  • Nghiên cứu khẳng định số loài sinh vật trên trái đất nhiều hơn số sao trong giải ngân hà chúng ta
  • Cơ chế di truyền và hóa sinh về tính kháng rầy nâu của cây lúa
  • Vật liệu bọc thực phẩm ăn được, bảo quản trái cây tươi hơn 7 ngày mà không cần tủ lạnh
  • Giống đậu nành chống chịu mặn có GEN gmst1 làm giảm sự sinh ra ROS, tăng cường độ nhạy với ABA, và chống chịu STRESS phi sinh học của cây Arabidopsis thaliana
  • Khám phá hệ giác quan cảm nhận độ ẩm không khí ở côn trùng
  • Phương pháp bền vững để phát triển cây lương thực nhờ các hạt nano
Designed & Powered by WEBSO CO.,LTD